Sơn Tùng - Theo con đường Bác Hồ (2)

Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho
rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5
tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là
ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc
tạo ra một cái "chiếu" trí thức, gọi là các văn nhân
thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng
Nguyên Cẩn…đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức
Phan Bội Châu, vào Huế gặp cái "chiếu" của ông Nguyễn
Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về Bác người ta
lại "ngại" viết về cái này lắm ? vì toàn là các gương
mặt phong kiến, quan lại cả. "Họ" tưởng rằng Bác Hồ
sinh ra từ cái "chiếu Mác Lênin", thực ra Bác Hồ sinh ra từ
cái "chiếu quan trường" như thế này thì "giảm" mất
cái giá trị nháy nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên
cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ của Việt Nam,
còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng,
nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là
"nền tảng" được, nền tảng là "Văn hoá Đại Việt",
văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm
trứng, trăm con, có miền ngược miền xuôi… Còn Mác là sản
phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng của Châu Âu ông vĩ
đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó…chứ cái
này năm 1924 Bác đã viết rất rõ:

"<em>Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu
chưa phải là cả thế giới. Vì Mác không có điều kiện để
nghiên cứu văn hoá phương Đông và lịch sử phương Đông,
chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và
lịch sử phương Đông</em>"

Đây là tôi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết
từ năm 1924 lại cho là "hỗn", là "đại xét lại" rồi
còn gì nữa! Mác thì nói về giai cấp vô sản và tư bản, còn
Bác thì Bác đi tìm vấn đề giải phóng dân tộc. Còn đây là
vấn đề của Châu Âu phát triển chủ nghĩa tư bản thì phải
đánh đổ tư bản để giải phóng vô sản. Bác thì khác, có
vấn đề giai cấp đấy, nhưng không phải giai cấp như ở châu
Âu. Văn hoá của Bác không được đưa ra suốt bao nhiêu năm,
bây giờ đã được đưa vào "Toàn tập" rồi (in lần thứ
2)

Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế
nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và chịu ảnh hưởng những gương
sáng nào, diện mạo nào?

Trên "chiếu văn" của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn,
tổng đốc An Tĩnh sau về làm thượng thư Bộ Công, rồi
thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu
quên nói vị hiền tài này là tôi có lỗi với Bác, là không
đầy đủ sự hình thành nhân cách của Bác. Rồi cụ Cao Xuân
Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc
học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế…Cái
"chiếu" của Nguyễn Sinh Sắc năm 1896, 1897, 1898, 1899…từng
ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa bảng lớn
ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người
Yên Mã, huyện Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình
Phùng)

Những người đó đi đến "chiếu" của Nguyễn Sinh Sắc thì
cậu bé Nguyễn Sinh Cung (còn gọi là Côn) hầu trà hầu nước
cha tiếp những vị khách này thì chịu ảnh hưởng khá lớn,
lại chứng kiến việc vua Thành Thái bị đi đày. Ông Khiêm có
kể lại câu chuyện mà sau tôi dựng lại trong phim "Hẹn gặp
lại Sài Gòn", viết trong "Búp sen Xanh" tái hiện lại.

______________________

(Tác giả chú thích cho đoạn trên) "Cụ nguyễn Thượng Hiền
là hoàng giáp tiến sĩ, người Liên Bạt, Hà Đông, đỗ đầu
khoa 1895, vừa đỗ xong thì có chính biến: vua Hàm Nghi "xuất
bôn" đánh đồn Mang Cá thất bại thì Tôn Thất Thuyết đưa
vua đi, sau đó ông Đồng Khánh lên không thừa nhận khoa thi
này, tổ chức thi lại, ông lại đỗ hoàng giáp tiến sĩ lần
thứ hai. Lúc này cụ ở Quốc Tử Giám (trong Huế) là Biên tu
Quốc sứ quán.

Trần Đình Phong dạy học, học trò là những nhà khoa bảng như
Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cần… khi ông vào
nam làm đốc học ở xứ Quảng học trò của ông là Huỳnh
Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Một ông
tiến sĩ mà dạy học trò tạo nên những nhà khoa học lớn như
vậy. Chúng ta chỉ nhớ Chu Văn An thôi mà quên mất Trần Đình
Phong cũng đỗ tiến sĩ với Phan Đình Phùng năm 1878.

Phim làm xong rồi, trong giới điện ảnh họ "đánh nhau", tôi
ở giữa là người viết kịch bản, tác giả kịch bản
4.558.000đ, đạo diễn chính 4 triệu, diễn viên chính Thu Hà
đóng vai út Huệ 2 triệu. Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ 2 triệu,
ông Tuấn quay phim chính 2 triệu. Làm xong phim rồi, ký hợp
đồng rồi, mỗi tỉnh mua mấy bản, bên Pháp mua mấy bản,
tính toán cả rồi. Bộ chính trị duyệt rồi đưa lên FAFIM.
Cục Điện ảnh "đánh nhau", "đánh" đến nỗi mà tiền
tráng phim này ở Băng Cốc (lúc đó ta chưa tráng được phim
màu) chỉ lấy được mấy bản để chiếu, còn vẫn để ở
bên Băng cốc. Nói thế để thấy rằng phim Bác Hồ gian truân
lắm. Diệp Minh Châu tạo một tượng Bác Hồ bằng đá nguyên
khối và đã tạc xong rồi, định dựng tượng Bác Hồ với
mấy đứa trẻ nhỏ thế thôi. Không hiểu nổi công trình làm
về Bác tại sao lại khó đến thế.

______________________

Căn cứ vào lời kể của ông Khiêm, bà Thanh, (tôi) tra lại cái
gốc vấn đề. Biết bao nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi
vừa giải phóng xong, đi đến đâu … (mất một đoạn ngắn
nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thôi:

<em>Nhân dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?</em>

Thế là các anh phê ngay: - Tại sao lại đề cao Thành Thái như
thế này? Thành Thái ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương
dân như thế này?

Khi chìa bản gốc ra, tôi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha,
quý trọng ông cha thì những bài thơ này (còn) phải đưa vào
dạy trong trường nữa chứ!

Từ đó tôi không đưa bài thơ này ra nữa vì có người còn
nói thơ này của Triều tiên, có người lại nói bài thơ này
thơ Đường chứ đâu phải thơ của Thành Thái. Vừa rồi
trường Quốc học Huế đã công bố chính thức bài thơ đó
của vua Thành Thái. Còn khi tôi đưa ra thì người ta nói ông
Sơn Tùng mượn bài thơ nổi tiếng bên Hàn Quốc (ông nói là
Hàn Quốc chứ không nói Triều tiên), khổ thế!

Ông Khiêm kể tiếp: – Buổi sáng hôm đó cha bác ngồi trước
linh sàng khói hương nghi ngút không vào Đại nội để chầu.
Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà Tả Vu chầu vua,
nhưng hôm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới
hỏi:

Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?

Lúc đó ông Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì "người ta"
nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm thừa biên Bộ Lễ của
triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó không được nói,
còn bây giờ thì nói thoải mái).

Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp
hương, hỏi thì cha nói:

- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ông Khiêm mới hỏi:

- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:

- Không có biến chi cả, toà Khâm sứ nó bắt vua:

______________________

(Tác giả chú thích) "Ông vua Thành Thái, con vua Dục Đức, lên
ngôi mới có 10 tuổi. Ông lên ngôi 1889, khi ra Bắc Hà 1902 lúc
đó mới vượt tuổi thiếu niên. Đi trên cái long xa, lần đầu
tiên rời khỏi kinh đô Huế ra Bắc Hà dự lễ khánh thánh cầu
Doumer (cầu Long Biên). Đi dọc đường thấy dân chết đói, ăn
xin mà cảm xúc làm bài thơ ấy.

______________________

Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm
khi ra Bắc mà bác Khiêm thuộc từ đó được bác chép lại,
chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu còn bút tích. Bút tích
của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn
ta ở hội nghị Pari nghe được bài thơ này thì giật mình:
Mình là dòng dõi Tôn nhất mà không biết (đó là ông Nguyễn
Minh Vỹ).

Hôm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tôi nói vui: – Thưa các bác,
đây toàn là "quan đại thần" cả, nào là Bộ Chính trị,
nào là Bộ trưởng…nhưng tôi hỏi bây giờ ai trong lãnh đạo
Đảng còn nhớ thương dân bằng ông vua này?

<em>Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao</em>

(Quan võ, quan văn họ chỉ sung sướng với bộ cẩm bào, lấy
làm hãnh diện sang trọng với bộ áo. Ta đây làm vua ở ngôi
thiên tử mà cô đơn, không ai hiểu ta. Uống ba chén rượu trong
hoàng cung như uống máu quần chúng nhân dân. Uống một chén
trà tiến vào cung vua như uống mồ hôi trăm họ).

Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót
vì dân cực khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học
vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai? Học cha ông học
ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.

<em>Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao</em>

(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng
như nước mắt của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong hoàng
cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy
nhiêu)…Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt
của dân đổ xuống! Bây giờ bọn tham nhũng không còn biết
xấu hổ với cha ông.

<em>Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào</em>

(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn,
phải bàn cái chỗ này: tìm con người cứu nước thì ai đây,
phó cho ai đây!)

Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này
thì ảnh hướng ở đâu?

Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó không ăn sáng mà ngồi
trước nén hương, vì thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung
kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là "có âm ưu lật
đổ" do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo.
Nỗi đau như thế mà ta không đem cho anh em đồng chí đồng bào
biết để mà học. Đây là nhân cách làm vua, nhân cách làm
tướng, nhân cách làm thầy. Học là học ở đấy chứ đâu.
Tôi cho rằng ta rời bỏ cha ông, rời bỏ cái văn hoá dân tộc
là không đúng, tất nhiên ta không dân tộc hẹp hòi, phải học
cái tinh hoa của nhân loài, của dân tộc khác, nhưng học cái
tinh hoa thôi, cái gì hợp thì ta học. Chính Bác Hồ là con đẻ
của văn hoá dân tộc, đi ra thiên hạ, nằm gai nếm mật, đến
nơi này nơi kia để khảo sát.

Về điều này tôi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là
Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ chính trị…khi duyệt kịch
bản phim của tôi ông bảo cái phim "Hẹn gặp lại Sài Gòn"
lúc bấy giờ lấy tên là "Con đường năm ấy" là để
khẳng định con đường của Bác Hồ, tôi nói:

- Bác Hồ là hệ quả của văn hoá dân tộc, là truyền thống
yêu nước, chứ không phải là Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng
từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ông Tố Hữu nói:

- Không, không, giai đoạn này tôi không thích ca ngợi, giai
đoạn Nguyễn Tất Thành chẳng là cái gì cả, giai cấp vô sản
giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó là
lượng thành chất…

Hôm đó cả anh Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ văn hoá, Chủ
tịch Hội đồng nghệ thuật quốc gia, đã duyệt (phim) rồi
lên xin ý kiến ông Tố Hữu; anh Vũ Năng An giám đốc xưởng
phim truyện, anh Hải Ninh là đạo diễn; anh Đào Xuân Tùng,
đồng tác giả kịch bản "Con đường năm ấy" và nhà văn
Hoàng Tích Chí ngồi nghe anh Lành nói thế…

Ông Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:

- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai
cấp vô sản Pháp giáo dục cho mới trưởng thành. Chỉ có
Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy bao nhiêu năm
có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu
mà có biết gì đâu? Chỉ có giai cấp vô sản Pháp giáo dục
cho (Nguyễn Ái Quốc)…còn giai đoạn Nguyễn Tất Thành chưa là
cái gì cả!

- Kính thưa anh – tôi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai
như thế, con quan thừa biện Bộ lễ, nho học có, tây học có,
học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho người ta gọi
là "kiêm bị", có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp
được quá đi chứ! Tại sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả
để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn Nguyễn Ái
Quốc có cả sự hoàn chỉnh nhân cách phương Đông để đi
đối thoại với phương Tây. Nếu không biết gì khi sang bên kia
thấy gì cũng vơ cả, như thế thì hỏng. Nguyễn Tất Thành ra
đi thì cô út Huệ ở lại, cô là con quan Bộ Công Lê Quang
Hưng, Nguyễn Tất Thành bỏ cả cái tình cảm, tình yêu này mà
đi vào nghĩa lớn, thì đó là bài học.

Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác
là con đẻ của dân tộc này, kết hợp với mọi cái, tìm
lượm được mọi cái hay ở bên ngoài. Ở bên Mỹ hiện nay có
mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục
nghiên cứu, nhất là Lady Borton, bà hiện đang ở Khách sạn La
Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên nghiêm cứu
Bác Hồ thời ở Mỹ.

Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở
Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái nôi văn hoá của dân tộc
hội tụ ở Huế. Huế là văn hoá bản địa của kinh đô,
đặc biệt các diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con
người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai lần tôi đề nghị
với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả
các bộ sách Sử và văn hoá ở triều đình Huế có đến bây
giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao Xuân Dục là
ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới
này, cùng Hoàng Cao Khải.

Dân ta công bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong
sách đâu. Ông Hoàng Cao Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao
Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.

Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không
bị mang tiếng là Việt gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại
Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó, nhất là ẩn tại
triều.

Những bài học của ông cha ta lớn như thế mà nó còn có quan
hệ xung quanh diện mạo Hồ Chí Minh đều ảnh hưởng từ
những cái này. Ông Đào Tấn cũng vậy, làm tống đốc An Tĩnh
mà khởi nghĩa Phan Đình Phùng, phong trào Phan Bội Châu mà ông
cũng không mang tiếng đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng, đàn
áp phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn
áp, trái lại còn dựng được vở tuồng "Hộ thành" ca
ngợi Phan Đình Phùng, ông ngầm giúp đỡ khở nghĩa Phan Đình
Phùng, ngầm giúp đỡ phong trào Phan Bội Châu. Cao Xuân Dục
cũng vậy, ông xuống Bãi Sậy mà không đàn áp, nên ông không
mang tiếng đàn áp mà trở thành một nhà văn hoá.

Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài
Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng khoa với cụ Phan Đình
Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này
cụ vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ
Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám, vừa là Đông các Đại
Học sĩ tứ trụ triều đình. Cụ về hưu năm 1923 nhưng vẫn
là nhà văn hoá, con của cụ là Cao Xuân Tiếu, cháu nội Cao
Xuân Huy nhà lão học lớn nhất nước ta hiện nay, nhất là Cao
Xuân Hạo. Một gia thế như thế đều có quan hệ với gia đình
cụ Sắc.

______________________

(Tác giả chú thích)"Cụ Hoàng cao Khải lúc đó là ông quan
lớn nhất nước ta, được phong phó vương ở Bắc cụ Cao Xuân
Dục làm tờ Thiên vô nhị thật, quốc vô nhị vương, trời
chỉ có một mặt trời, nước chỉ có 1 vua, chứ sao lại hai
vua. Sau khi áp Bãi Sậy Hoàng Cao Khải được vương Quân
công."

______________________

Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng
một suất khuyến học. Cụ Cao Xuân Dục để ra một số ruộng
khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông Sắc
được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào
Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu
Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này thì nó mất
cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác
Hồ đứng được ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận
được những vấn đề văn hoá…đều là nhờ cụ Cao Xuân
Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.

Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm
những cái từ cội nguồn. Nói như thế để các thầy các cô
sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung thêm,
hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi
dưỡng qua nhiều bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên
con người đó, chứ không phải tự dưng nó đến. Thế thì ông
Cao Xuân Tiếu mua ngôi nhà của lính "khố vàng" cho ông
Nguyễn Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là
điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi bà Sắc chết rồi
ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ông mới
đỗ). Trong khi còn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa
mới chết, ông Sắc cùng ông Phan Chu Trinh cả hai ông đều bị
đánh hỏng trong khoa thi này. May sao cụ Cao Xuân Dục là Chánh
chủ khảo Hội đồng khảo thí khoa Tân Sửu (1901), khi phúc
khảo lại toàn bộ thì thấy có hai bài của hai ông Phan Chu
Trinh và Nguyễn Sinh Huy (lúc này ông Sắc đổi tên là Huy). Cụ
Cao Xuân Dục nói:

- Chết, những bài này mà đánh hỏng thì hậu thế người ta
nói thi cử không công bằng.

Ông làm tờ trình lên Bộ học và lúc đó cụ Đào Tấn cũng
góp phần tâu lên vua Thành Thái xét lại hai vị sĩ tử này. Hai
sĩ tử này xét về văn bài phải là hàng đầu bảng mà bây
giờ đánh hỏng là không được. Lúc bấy giờ có hai phái: –
phái Nguyễn Thân muốn đánh hỏng, nói là hai ông này phê phán
nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, là "khinh ngôn". – phái nữa là
Đào Tấn nhận xét thi cử là để chọn những hiền tài, đánh
hỏng những người thế này thì hậu thế người ta khinh lại.
Sau cả hai phái đều lấy lại nhưng dung hoà là không lấy
tiến sĩ nữa mà lấy phó bảng, nên hai ông đều là phó bảng.
Đời vua Thành Thái, khoa thi này có 9 tiến sĩ, 11 phó bảng,
lấy thêm 2 phó bảng thì cụ Phan Chu Trinh bị đội bảng thứ
13, cụ Sắc thứ 11.

______________________

(Tác giả chú thích) "Vào học Quốc Tử Giám là quan đại
thần, mà ông Sắc chỉ là con một người bình thường. Cụ Cao
Xuân Dục phải nhận cho vì lúc đó cụ đang là thượng thư
Bộ Học và là Tế tửu Quốc Tử Giám.

Khi vào Huế cụ Sắc túng thiếu. Con trai cụ Cao Xuân Dục là
Cao Xuân Tiếu (đi thi cùng khoa với cụ Sắc) đỗ cử nhân, sau
đó đỗ phó bảng, cụ Sắc không đậu, khoá sau mới đỗ. Hai
người là bạn học của nhau, cụ Cao Xuân Tiếu mới mua một
ngôi nhà ở ngõ Đông ba của một lính "khố vàng" về hưu
ở An cựu để ông Sắc đưa vợ con vào đây. (Búp Sen Xanh tôi
không đưa đoạn này vào, sợ mang ơn triều Nguyễn quá nặng,
chỉ cho tôi nói là nhà ông lính "khố vàng" thôi)

______________________

Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xuân Dục có mối liên quan hệ
tình cảm sâu sắc với gia đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc,
rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì vua
Thành Thái ban "ân tứ vinh quy", ban áo mão để đi dự tiệc
vườn Thượng uyển được "kén vợ", chọn một cô nào thì
tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục định gả con
gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các
cháu đang thơ như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan,
nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư dinh, ông nói trước để
khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại
thần. Cụ nói: – Tôi muốn giúp anh người hiền đức mà
"thất nội trợ…"

Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn
và xin Cụ lớn miễn cho con việc này, là vì con được như hôm
nay là nhờ cha mẹ vợ, gia đình vợ, bây giờ vợ mất rồi,
con rể đỗ đại khoa, vinh quy bái tổ mà lại nằm trên cáng
và một võng người con gái khác cùng về theo thì điều này
đau đớn cho mẹ vợ của con. Vậy xin quan lớn, miễn cho con,
chứ không phải con chê , chê là không phải, là xúc phạm…
nên con xin tạ cái ơn hải hà này.

Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình
muốn chọn người tài để gả con gái cho, mà con gái thì mới
18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để giúp
"nâng khăn sửa túi" cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con,
dựng nghiệp. Tôi nói phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân
Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng Văn Thuỵ
(cụ Đặng Văn Thuỵ là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn
Oánh, Đặng Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hoàng Tăng
Bí, thân sinh ông Hoàng Minh Giám; gả con gái cho phó bảng Lê
Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An…

Khi tôi tìm vào nhà cụ Hồ Tá Bang (người sáng lập trường
Dục Thanh), nhiều người kể lại, Nguyễn Tất Thành ngày xưa
còn trai trẻ mà đã để được trong trí nhớ mọi người
đương thời những ấn tượng tốt đẹp, không dễ đâu. Chứ
không phải lên đến lãnh tụ người ta mới quý. Người ta quý
Bác Hồ đi cứu nước, cứu dân là bước sau này, còn trước
hết, khi Bác còn là một cậu học trò đã có nhân cách học
trò, làm thày giáo có đức độ người thày. Là cậu bé khi
làm thơ đã có cái gì manh nha biểu hiện ở con người ấy,
đứa bé ấy đã biểu hiện những đức tính đẹp, đức tính
đẹp đó cũng biểu hiện những truyền thống nho gia trong gia
đình, trong quê hương, trong thầy học vv… đã tác thành từ
buổi ban đầu của những con người thời còn trẻ như Nguyễn
Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm, nhất là Nguyễn Tất Thành.

Tôi "đi tìm" Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, không
phải "tìm" Bác Hồ trên con đường Mác Lê nin, cái đó là
sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách con
người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân
tộc là chính cái ấy, là ở những khía cạnh này, trong gia
đình, trong bạn bè của cha, của người thầy…tất cả giai
đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại
biểu hiện một khía cạnh nữa là sau khi ông Sắc trở về
quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có "trát" của Đô sát viện (như
Ban tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô
sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì
mẹ vợ không có con trai, nuôi con rể ăn học, nay ở một mình,
nên ông xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ông Sắc đưa các con đi
khắp nơi, các vùng quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân Pháp
tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông
Du…Thế thì Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp
vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất gốc của họ
Hồ.

Ông Khiêm kể chuyện như sau:

- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau
gọi là cụ Quận (tức quận công Hoàng Cao Khải, như ấp Thái
Hà) và tôi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì cụ Thước
kể:

- Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh
thự của cụ Quận công, có mời các quan sở tại đầu tỉnh
cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có tường hoa,
đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân toàn
uống rượu tây, thì cái đám học trò, cái đám trẻ đó (như
cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng toàn học trò chữ nho, nào là
Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm),
thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận
công mới xây dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể
cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si tính đến trăm
tuổi, có ba ông lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám
học trò đứng ngoài nói to một câu "Các quan làm thơ dở
quá!"

Nghe thế, ông Hoàng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ
chạy (cụ Khiêm, cụ Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú
Thành chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó cụ Hoàng Cao Khải mới ra,
nói:

- Thôi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui
lớn, các cháu đến mà đuổi thì dân làng người ta cười.
Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các cháu
không được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ
của các quan thì bây giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ,
ông thưởng.

(Ông Hoàng Trọng Phu trẻ thì nạt, còn cụ Hoàng Cao Khải già
thì mời các cháu vào) Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại,
Cụ Hoàng nói tiếp.

Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ,
dù có dở ông cũng thưởng, vào đây.

______________________

(Tác giả chú thích) Ấp Thái Hà lấy cái tên Hà Tĩnh đặt cho
ấp ở Hà Nội. Ông Hoàng Cao Khải có xây dựng một dinh thự
ở quê giống cái ấp ở Thái Hà ở Hà Nội.

Cụ Lê Thước đỗ giải nguyên Hán học khoa cuối cùng 1918, sau
học Cao đẳng sư phạm là thầy học của lớp người như Tôn
Quang Phiệt là bạn học cùng tuổi với Bác Hồ, sau cụ Thước
về Viện Văn học.

Cụ Hoàng Cao Khải là tuần phủ Hưng Yên. Hoàng Trọng Phu là
con Hoàng Cao Khải, lúc đó ở Tây mới về, cùng trường thuộc
địa với Thân Trọng Huế, Lê Văn Miến, ba người này là ba
con quan đại thần được chọn đi học trường thuộc địa ở
bên Pháp, học xong thì Lê Văn Miến ở lại học thêm hội
hoạ, còn Thâu Trọng Huế về. Sau này H.T.Phu là tổng đốc Hà
Đông (Đại sứ quán Trung Quốc hiện nay là nhà của ông Hoàng
Trọng Phu, còn trường Tuyên giáo bây giờ là ấp cụ Hoàng Cao
Khải).

______________________

Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành
nhìn thấy ba ông phỗng ở trên núi non bộ, nói:

Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ
đừng phạt cháu.

Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ông không phạt cháu đâu

"Kìa ba ông lão bé con con"

(Mọi người cười, "ba ông lão" lại "bé con con" thế
mới ngộ nghĩnh)

"Biết có tình gì với nước non"

(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ không ai
nói với ai, tất cả đều im lặng)

"Trương mắt làm chi ngồi mãi đó

Hỏi xem non nước mất hay còn ?"

Ông Hoàng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?

Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?

Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:

Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên
Ngệ An sang đây.

Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ
đại khoa cùng với cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói:
– "Hổ phụ sinh hổ tử", rồi cụ chống gậy đi vào. Còn
Hoàng Trọng Phu thì nói: Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm
loạn (chuyện này cụ Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày
giải phóng miền Bắc, năm 1957 tôi đi gặp cụ Lê Thước, cụ
Phạm Gia Cần để đối chiếu).

Khi có bài thơ trong tay rồi, tôi thấy trong bài đó có cái gì
hơi hướng tứ thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Khi đó tôi
đang công tác ở Đại học Nhân dân, đem trao đổi với các
thầy cô tôi nói cái này như thơ Nguyễn Khuyến. Thời bấy
giờ người nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói
chuyện là nhà thơ Xuân Diệu. Tôi đến hỏi thì Xuân Diệu nói
cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ "ba ông phỗng" nhưng hoàn
toàn khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp
tác với Pháp. Cụ chỉ nhận làm quan Toản tu Quốc sứ quán
rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng đốc
Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp
tác với Pháp nên cụ nhận làm "gia sư" cho gia đình cụ
Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hoàng Cao Khải cũng muốn
mời được ông Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì
cũng sang.

______________________

(Tác giả chú thích) Cụ Lê Thước nói cái gậy mà cụ Hoàng
Cao Khải chống, hội chợ Pari có 3 cái thì toàn quyền Pasquier
mua cái gậy tặng cho Hoàng Cao Khải sau khi dẹp cuộc khởi
nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật, trên đầu con rắn ở cái
gậy có gắn viên kim cương.

______________________

Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm,
sau đó về cái đất Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị
chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hoàng Cao Khải muốn có một bài
thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm
kỷ niệm và cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.

"<em>Ông đứng là chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy
Non nước đầy vơi có biết không</em>"

Cũng bốn câu, cũng ba ông phỗng và cái núi non bộ ngoài này
với trong kia là một mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài
thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con người của
thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về
những nhân cách. Cụ Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ
là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất lực "trơ trơ
như đá vững như đồng", nhìn cái thế lực thực dân lúc
đó như cái trụ đá rất cao lớn, toàn đá tảng…sự tồn
tại, sự bền vững xây trước dinh Hoàng Cao Khải. Còn Nguyễn
Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:

"<em>Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn?</em>"

Nó khác, nó có hùng khí: "Trương mắt làm chi ngồi mãi đó!
Hỏi xem non nước mất hay còn?"

Tôi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là
nên về đi thôi, anh sẽ bất lực trước các hiện thực, sự
sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh
thì huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái
thầy quân sư quạt mo nó nói dài dài thì vâng, cứ gật… Thôi
tuổi 70 thì lực bất tòng tâm, trừ trường hợp đặc biệt
rèn luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn thông minh đến thế, minh mẫn
đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung
ương 11 của đồng chí Lê Khả Phiêu là trong thư của Đại
tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Thư của đồng chí
Nguyễn Đức Tâm như thế… thư của ba vị tướng như thế…
thư của nhóm các ông tướng Chu Huy Mẫn, Nguyễn Quyết làm như
thế thì ông Giáp viết rất chiến lược, rất sát. Thư của
ông (Giáp) như thế này; tôi đọc gần như nguyên văn:

"Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí
cố vấn.

Tôi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị
ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa, một là dị ứng thời tiết
bị rôm sảy, còn "dị ứng" nữa ngoài này nó nhiều chuyện
bầy hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác
rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh phiền, cho nên cụ vào
Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình không bình thường, vô
cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh
thời, Hồ Chí Minh, Người luôn luôn nhắc một điều là phải
đoàn kết, muốn đoàn kết thì phải phê bình tự phê bình
thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này,
tình hình bên ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí
có trách nhiệm không tự phê bình một cách kiên quyết, trong
sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí…

Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tôi. Đồng
chí Đỗ Mười có nói tình hình sức khoẻ, muốn nghỉ cố
vấn. Tôi hoàn toàn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và
các đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành không
cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười lại nói có đọc ở
Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên
cạnh Ban chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám
sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười thế này: Đảng ta
không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế,
Đảng sẽ có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh
đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội, như thế là rất sáng
suốt.

Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt
động vừa đây như là khuynh đảo của một cá nhân, hoạt
động như là đảo chính trong Đảng, tôi đề nghị Trung ương
phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.

Xuống đoạn dưới viết: "Đại hội 9 này là Đại hội gì?
Đề nghị Trung ương "Dân chủ" là trên hết, "trí tuệ"
thứ hai, "đổi mới" thứ ba, "đoàn kết" thứ tư, bốn
điểm…

Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.

Không dân chủ thì làm sao mà đấu tranh vạch ra được cái
lỗi này, có dân chủ thì mới đấu tranh chống tham nhũng,
chỉnh đốn Đảng mới ra trò chứ, không dân chủ thì cũng
không đưa trí tuệ vào được. Dân chủ, trí tuệ… muốn trí
thì phải đưa người có học hành vào, thời buổi internet mà
không biết tiếng Anh thì làm sao được. Ai đời người lãnh
đạo vào phòng máy vi tính lại hỏi: "làm gì mà nhiều vô
tuyến thế này". Đau khổ cho người lãnh đạo thế chứ. Như
thế thì làm sao tiếp nhận tất cả trí tuệ ở internet vào
được? Mà cách đây mấy năm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
nhắc Đảng ta phải lo ngay việc giáo dục đào tạo tin học.
Năm em đi thi tin học quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ về mang lại
vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng
như vậy mà các em nó giỏi như thế thì không ai nói đến. Bộ
giáo dục không nói, Tổng bí thư không nói, bóng đá thì rùm
beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao… nhưng tại sao
tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà…gọi điện
thoại cho Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu…
Thời nay không có trí tuệ thì làm gì được. Bây giờ phải
biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngoài, họ có
nói bằng tiếng Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ,
Đổi mới, Đoàn kết…90 tuổi mà sáng suốt như thế. Nay cụ
ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm
ở viện, ở nhà thì người ta đến, đến thì sinh chuyện.
Thế mà "người ta" đã tung đồng chi Võ Nguyên Giáp đã tổ
chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái
khác. Không! Ông có còn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương
đâu! Quân uỷ trung ương có phải của Ông (Giáp) như trước
nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo
chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao
nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội VII người ta dựng ra cả một
bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang
"đồng chí Giáp hoạt động lật đổ…

Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục
năm qua là như vậy. Bác Hồ chúng ta đi trên con đường từ
thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng có cơm
ăn áo mặc, được no ấm, còn tất cả mọi thứ chỉ là
phương tiện, chứ còn mục đích của Bác Hồ là nước độc
lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc Bác nói mong
muốn suốt đời tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành, như vậy là suốt đời không có gì quý hơn Độc
lập tự do. Nước độc lập mà Dân không có cơm ăn áo mặc
thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.

…(Bị mất một đoạn ngắn) Khi Cụ Hồ về tới Pác-Bó thì
nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng là tìm cho báo Thanh
Nghị. Thế mà sau Đại hội III có người nói "có triết học
Mác-Lê-Nin" không cần bộ tư pháp, bỏ Bộ Tư pháp. Mới rồi
khôi phục lại Bộ Tư pháp đó chứ. Cái gì Cụ Hồ đề ra
thì bị xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu ca
gì. Còn có người nói ông Nguyễn Khắc Viện là tay sai của
Pháp về, ai như ông Viện? Hôm xét giải thưởng cho ông Trần
Đức Thảo, cả hội Khoa học không ai đọc được cái gì của
ông Thảo vì ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ giáo sư Phan
Ngọc đọc bài giải trình về Thầy Đào Duy Anh, Giáo sư Trần
Đức Thảo. Khi đọc xong, cả hội trường đứng dậy, bấy
giờ nhiều người mới hiểu ông Trần Đức Thảo lớn đến
thế. Nhưng bài ông Ngọc có câu làm cho một số nhà lãnh đạo
bực mình "Việc Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho
Giáo sư Trần Đức Thảo, nó cũng làm sang cho cái giải thưởng
này, nếu còn người đứng lên nhận thì cái giải thưởng ấy
thêm giá trị, nhưng tôi thấy một nỗi rằng: có giải thưởng
vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, vì ông đã nằm
dưới mồ rồi. "Nó gần giống như thế kỷ 15, khi đức Lê
Thánh Tông khôi phục cho Nguyễn Trãi, làm cái lễ trở về Nhị
Khê gần Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trãi trước dân làng,
khi ông Thượng thư Bộ Lễ đọc xong chiếu giải oan thì nói
thêm một câu rằng: minh oan được cho họ Nguyễn, nỗi oan
khốc này đối với quan Hành khiển đã một thời "Lê Lợi vi
quân Nguyễn Trãi vi thần" bây giờ quay mặt lại thì không
còn ai để nhận cái chiếu vua giải oan này nữa, vì tru di tam
tộc mất rồi. Mong sao lịch sử đừng bao giờ lặp lại! Nỗi
đau trong lịch sử nó ghê gớm thế. Suýt nữa thì ta lại phạm
lại lần nữa đối với ông Tổng Tư lệnh, ai lại nói con
nuôi mật thám mà lại chui vào làm Tổng Tư lệnh của một
quân đội dẹp xong mấy đế quốc siêu cường. Trước đó đã
chuẩn bị một cái đảo để đi đầy! Việc đó suýt diễn ra
trong thập kỷ 60. May sao, lúc đó Cụ Hồ còn sống; cụ nói:
"Tôi còn sống, không ai thay được Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên
Giáp! Họ gán cho ông Giáp là "trùm xét lại". Việc động
trời này nhiều người đã biết.

Đọc 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng
viết về cải cách ruộng đất bắn bà Nguyễn Thị Năm như
thể bắn vào quan điểm Cụ Hồ, vì Cụ Hồ không chủ trương
cải cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước có cái đặc
thù thì đánh như thế nào? chứ không thể đánh như Tàu
được. Vì khi cách mạng mới thành công, cả Trung đoàn ăn cơm
trong nhà bà Nguyễn Thị Năm. Con trai bà là chỉ huy Trung đoàn.
Thế mà ông cán bộ của ta đi Trung Quốc mang "tư tưởng
Mao" về, chủ trương bắn ngay bà Nguyễn Thị Năm. Bác Hồ
nói: Cách mạng này nó bạc bẽo quá, gia đình này đã bỏ thóc
gạo nuôi hàng Trung đoàn từ thời cách mạng còn hàn vi. Nay
cách mạng đã lớn mạnh lại bắn người ta thì bạc bẽo quá.
Bát cơm siếu mẫu ở đâu? Sau đó còn nghe cố vấn nước bạn
lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong quân đội gồm
phần lớn trí thức tiểu tư sản trong đó có hàng tướng lĩnh
để chỉnh đốn tổ chức.

Bác Hồ bảo: phải đốt ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ
thì còn đâu để lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó CCRD như
thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ trong quân đội thì trời
đất nào? Nói như thế để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta
phải thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp thì nó dễ cực đoan lắm. Không
lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần đân tộc làm nhãn quan mà
lấy giai cấp, lấy cái thù hận làm nhãn quan để đánh đổ
người này, người kia thì nguy. Ông Hoàng Tùng viết, kể lại
có lúc Bác Hồ khóc vì lúc bấy giờ ông phụ trách tuyên
huấn, phụ trách báo Nhân dân nên rất gần Bác Hồ, ông H.T
kể lại Bác Hồ hỏi sao CCRD lại bắn vào người đàn bà?
Người đàn bà Việt Nam khác với đàn bà Trung Quốc. Người
đàn bà Việt Nam thì cứu nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi
chồng nuôi con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người
lại nói: Hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn người. Cho nông
dân đấu tố để vùng lên, nếu không thì nông dân hàm ơn
địa chủ suốt đời! Cho nên nghiên cứu về Bác Hồ thì thấy
Bác Hồ có nỗi cô đơn về quan điểm "dĩ bất biến ứng
vạn biến". Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược như
thế này. Độc lập dân tộc là cái bất biến, cho nên phải
ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ là đế quốc xâm lược cho
nên có những vấn đề phải lùi một chút. Trong Di chúc Bác có
nói khi kết thúc chiến tranh việc đầu tiên là phải chỉnh
đốn lại Đảng chứ không phải để đến 30 năm mới làm.
Trước khi viết Di chúc, Bác xuống Côn Sơn, đọc bia Nguyễn
Trãi, Người nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trãi.
Điều đó đủ nói lên Bác với nỗi đau Nguyễn Trãi! Các nhà
nghiên cứu giỏi, bắt cái thần vào ảnh này, tại sao ngày
rằm tháng 1 năm 1965 Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trãi vì Nguyễn
Trãi để lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết thúc
chiến tranh này đừng để lặp lại nỗi oan này! Trong chiến
tranh thì cái mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc phải lùi lại.
Rồi ngày 10/5/1956, Bác bắt đầu viết Di chúc, đầu năm thì
ôm lấy bia Nguyễn Trãi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để
nhận cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của
đất trời con người ấy đã cảm thấy cái chuyển động trong
cơ thể không còn có thể sống lâu được nữa. Rồi người
sang Trung Quốc, đúng ngày 19/5/1965 Bác về quê hương Khổng Tử
giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung Quốc đang
làm đại cách mạng văn hoá, đập cả trường Đại học Thanh
Hoa. Vậy mà, Bác Hồ cùng với cụ Đổng Tất Vũ, phó chủ
tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (người ngoài Đảng như
cụ Phan Kế Toại của ta) đi lên quê hương Khổng Tử, nằm
ngủ tại đây một đêm, thắp hương cho Khổng Tử. Các nhà lý
luận không giải thích xem tại sao cụ không sang Liên Xô, sang
Đức để thắp hương mộ cụ Mác mà lại đến thắp hương
cho Khổng Tử? Giữa lúc Trung Quốc đang đánh đổ Khổng Tử.
Cái triết học phương Đông, đặc biệt là Việt Nam nó thâm
thúy thế đấy.

Cụ Hồ của chúng ta là vậy không trích đoạn này đoạn khác
của các triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa thì
luận nó ra. Cụ về thì có làm bài thơ để thắp hương cho
ông Khổng Tử 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng báo 1969 khi
Người ra đi, thì đến năm 1989 tức là 20 năm sau thấy không ai
đả động gì đến Di chúc của Bác cả. Đồng chí Vũ Kỳ
mới chép ra trong hồi ký: "Bác Hồ viết Di chúc". Đặc
biệt là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng, miễn thuế cho
nông dân và vấn đề hoả táng cho Bác để giải thoát cho
Người về với trời đất chứ giữ lại trong lăng là ngoài ý
nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng tẩm lại đế đô,
vua băng hà thì đưa về quê như 8 vua Lý thì về Bắc Ninh, các
vua Lê thì về Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc Tổ
Quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đình. Bác khai sinh
VNDCCH tại Ba Đình, Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy
nhưng Di chúc thì hoả táng, sau này có nhiều điện thì điện
táng để giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. Còn tro
cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung, Nam bà con để một nơi
nào đó để tiện việc trồng cây lưu niệm, Bác đã xem mộ
cho Bác rồi, tức là Đá Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi
Tản Viên là một trong 4 ông thánh "tứ bất tử". Bây giờ
có ông nào đó lại chủ trương xây một cái đền thờ bằng
đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập đền thờ Bác trên
núi Tản Viên là sai ý Bác. Dân sẽ có ý kiến là Cụ Hồ
không khiêm tốn làm đền trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở
bến này. Chính nơi Bác đã tìm là cái hang ở Đá Chông, dưới
chân núi Đức Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở
đây, Bác còn dặn là lấy thép không rỉ để chống rết,
chống rắn nó vào, sau khi hoả táng thì lấy một phần tro cốt
về đây. Chỗ này ta có thể để một hướng cho người đến
viếng Bác thì thắp hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là Di
chúc để lại cũng không được thực hiện. Thế gian có
chuyện cha để lại Di chúc cho các con thì các con không những
không thực hiện mà đánh nhau để chia của…Thế mà hôm nay,
Di chúc dặn phải "giữ đoàn kết như giữ gìn con ngươi của
mắt người" thì học trò – còn gọi là học trò xuất sắc
cả, mà phe cánh cả. Nguyện vọng của Bác là Việt Nam Hoà
bình như vậy. Hoà bình là muôn đời. Cái trong Bình Ngô Đại
cáo như các thầy, các cô đã giảng bài như vậy. Nước Hoà
bình, Độc lập, Thống nhất Độc lập đi đôi với dân chủ
và giàu mạnh chứ không dặn là XHCN. Xã hội chủ nghĩa là cái
mơ ước. Hồi đó có đồng chí trong Thường vụ Trung ương
muốn Bác sửa: Việt Nam Hoà bình, Thống nhất Độc Lập, Dân
chủ, Phú cường, Bác bảo phú cường là từ Hán Việt. Nên
nói giàu mạnh, tức là dân giàu nước mạnh.

Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá có gặp cụ Lê Thước, GS. Cao
Xuân Huy, G S. Nguyễn Mạnh Tường, GS. Đào Duy Anh lúc đó tản
cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá ngày 20/2/1947,
phê bình Tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết, cách mạng chưa gì
đã tranh công tranh phần. Họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban xong thì tiếp
đó Bác gặp các trí thức. Cụ Lê Thước thay mặt anh em đứng
dậy nói: Thưa Bác…Bác Hồ nói ngay: Chúng ta đồng lứa, Bác
để cho thanh niên gọi. Giáo sư Lê Thước đồng tuổi, lại
cùng quê với Bác, bèn nói: Thưa cụ, anh em chúng tôi đây xin
Cụ giải thích cho một điều: Chế độ CHDC, XHCN, Dân chủ
mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng?

Bác cười và nói: Xin các Cụ chúng ta đừng lệ thuộc gì vào
mấy cái danh từ. Ta hãy coi đây là nước Dân chủ mới. Vì
bên Tây đã có Dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ, bên Anh
còn trước nữa nhưng đến bây giờ chưa thực sự có một xã
hội dân chủ có công bằng. Cụ thể là nước ta bây giờ là
nước Dân chủ kiểu mới, tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây
là đất văn vật mà hiện nay ở miền xuôi 80 đến 85 phần
trăm, miền núi đến 95 phần trăm dân mù chữ. Đấy, cách
mạng ta tiếp thu một cái gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp
đô hộ thế thì bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết
đọc, biết viết và trung học, đại học trên cái nền của
toàn dân biết chữ. Còn nhà bị đói nghèo thì xoá được đói
nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi thì đến no đủ, nhà no đủ
rồi thì đến giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. Còn nói XHCN
hay CSCN ta chưa quan tâm. Nội dung của chế độ ta phấn đấu
bằng được như trên. Bây giờ ta lại nói 10,15 năm nữa bằng
Liên Xô, bằng Mỹ thì sao bằng được. Ảo tưởng như thế,
hão huyền như thế không thể thực hiện được thì đổ vỡ
chứ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người mà cuối
cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số nước trong khu
vực không đánh giặc như ta mà có độc lập, có người suy ra
cái này. Họ quên một điều rằng nếu như không có người đi
hàng đầu trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái ý
chí xâm lược, làm bá chủ thế giới của nó. Muốn có bình
đẳng cho các dân tộc thì có dân tộc phải hy sinh. Hồi chiến
tranh, ở miền Nam cứ đến chiều thì sợ nhất cái dàn pháo
Tân Tây Lan, tức là cấp tập đại pháo của Tân Tây Lan, Thái
Lan, Nam Triều Tiên. Tất cả các nước hùa vào với Mỹ. Các
nước đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ, đợt đầu
thì nó đưa từ bên Mỹ (Honolulu) sang, sau này tất cả sản
xuất phục vụ chiến tranh là các nước khu vực này. Năm rồi
tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống Truman để
công nhận cho độc lập của nước ta, để tránh một cuộc
chiến tranh, thế mà có người không hiểu gì cả lại nói Cụ
Hồ thích được dân tộc anh hùng, để cho dân mình khổ, nói
vậy là không phải. Khi Cụ ở Luân Đôn, Cụ ra nghĩa trang Hây
– ghết đặt một bó hoa lên mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một
thiên tài có một chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải
quyết vấn đề độc lập dân tộc của nước mình, chứ không
phải là quyết định. Thế cho nên những năm Cụ ở Quốc Tế
Cộng sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận điểm về giải
phóng dân tộc thì bị cô lập. Khi đầu định giao về Phương
Đông từ Mạc Tư Khoa mà sang Trung Quốc chỉ được cấp kinh
phí đi đường một chuyến sang Quảng Châu năm 1924, đấy là
lần duy nhất. Còn chỉ tự nuôi lấy mình, nuôi lấy đội ngũ
cán bộ cách mạng. Cho đến 1927 về lại Mạc Tư Khoa, năm 1928
lại đẩy đi khỏi Mạc Tư Khoa không muốn để Nguyễn Ái
Quốc ở lại Mạc Tư Khoa, sợ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc
sẽ ảnh hưởng đến đại biểu của các dân tộc dự đại
hội OTC. Về Thái Lan xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt
Kiều rồi sang Trung Quốc để hợp nhất 3 đảng cộng sản
trong nước thành Đảng cộng sản Việt Nam. Bác chủ trương
đoàn kết các giai tầng xã hội, không phân biệt giai cấp. Đó
là Đảng Bác Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng 11/4, Đệ tam
quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước, mang theo một
bản phác thảo đề cương do ông Míp, Viện trưởng Viện các
vấn đề dân tộc của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga
để đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát phong trào
trong nước viết bằng văn bản gọi là luận cương tháng 10
của Trần Phú, bỏ các văn kiện của Nguyễn Ái Quốc thành
lập Đảng như: Chính cương vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, tên mà Bác Hồ đặt ra lúc thành lập
Đảng! Bỏ Bí thư đầu tiên là Trịnh Đình Cửu, còn gọi là
Cửu kính trắng, một trí thức ở Hà Nội. Vợ ông là bà Lệ,
một lão thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi, đang sống trong
một ngôi nhà ở Hồ Tây. Khi Đảng của Bác Hồ được thành
lập bị bỏ, tháng 10 họp không có Nguyễn Ái Quốc, đặt lại
tên Đảng là Đảng cộng sản Đông Dương, tất cả mọi
người phải đi vô sản hoá. Trong dự thảo Luận cương của
đồng chí Trần Phú (chưa được Hội nghị này thông qua) các
nhà sĩ phu yêu nước thì gọi là bọn Huỳnh Thúc Kháng, những
trí thức yêu nước thì gọi là bọn Nguyễn An Ninh…Tôi không
dám nói bịa trước anh linh của một nhà ái quốc, các ý trên
đã ghi trong Luận cương của đồng chí Trần Phú. Đó là tả
khuynh ấu trĩ của một thời sai lầm về quan điểm như vậy.
Chúng ta nhìn rõ cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí
Trần Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta. Với Bác Hồ
thì ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ Huỳnh Thúc Kháng mới
từ Quảng Nam ra và nói: Cụ ra đây là "an dân lạc quốc".
Ta lục lại lịch sử như thế để mà thấy cái gì cứ rập
khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập là chết, xa
rời dân tộc là thất bại, chứ ta không biệt phái. Đây ta
không phải biệt phái mà ta nói thế, mà nói cái chỗ anh xa
rời dân tộc… Cho đến tháng 8 năm 1935 Đại hội thứ nhất
tại Ma Cao, đồng chí Hà huy Tập viết một văn bản đề nghị
Đệ tam Quốc Tế thi hành kỷ luật đồng chi Nguyễn Ái Quốc.

Bác Hồ suốt đời chỉ muốn cho dân tộc độc lập, nhân dân
no ấm. Khi giành được độc lập rồi thì Bác chỉ mơ ước
làm sao cho đất nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Và khi chết rồi (Bác) vẫn để câu này ở
trong Di chúc. Nếu đi theo con đường Bác Hồ thì lấy từ cái
này, ta đừng vội dăm ba năm, năm mười năm để vượt ai,
không nên! Mà làm cho dân nghèo có…ăn rồi no đủ, no đủ
rồi giàu có, giàu có rồi giàu nữa…cứ thế mà làm . Mọi
người đều trong sạch, dân no đến đâu mình no đến đấy.
Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà 700 triệu thì
để làm bao nhiêu trường học.

Hôm nay nói với các thầy các cô thì tin rằng Đại hội 9 sẽ
mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng, nó đã chỉ ra những con
người cơ hội chui vào Đảng khuynh đảo một thời, làm cho
Đảng ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác Hồ thành
lập Đảng, cũng như bao lớp người đi tìm con đường độc
lập cho dân tộc, no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập ,
dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học, học ít rồi học
nhiều nữa, cả dân tộc đều trí tuệ. Đã có nền văn hoá
rồi thì dân tộc phải được học những vấn đề của thời
đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy, còn các Đại hội
trước chưa thấy, bế tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham
gia ý kiến, dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng trên
đài, trên báo có đưa ý kiến của dân, của người này
người khác, tuy chưa dám đưa hết.

Bên cạnh phòng họp (Đại hội) có phòng tập hợp thư từ tố
cáo của đảng viên, cán bộ, nhân viên. Có đồng chí nhận
thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng chí làm
chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào giao cho ông ấy,
còn bản gốc thì lưu lại. Sai đúng thế nào chưa biết, ông
này ông nọ có từng cái thư tố cáo thì nhận lấy. Một trăm
ông uỷ viên trung ương là được phát cả, còn có phát cho
đại biểu Đại hội thì không biết. Trong những thư đó thì
chỉ có mấy ông không có tố cáo, có cả danh sách gửi tiền
nước ngoài, sợ quá! Còn làm ăn thì phải có nhà một tầng,
hai ba tầng khang trang, bằng đồng tiền lao động, bằng trí
tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chặn cái này, ăn chặn
cái kia…

Hôm họp Trung ương; một đồng chí cố vấn đứng dậy, bước
ra nói: Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động đến hôm nay
nó lại xảy ra đến mức thảm hại như thế này…(tức là
người ta đấu cho). Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế.
Anh nhận ra thảm hại thì bây giờ đã hơn 80 tuổi rồi. Lời
nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra thì anh cũng thấy, anh tưởng
(anh) có quyền, có lực thì có vinh quang…không có! Đó là cái
nhục đó. Cái vinh và nhục, nó nhục ngay trên cai "ghế"
của vinh; không phải trên cái ghế cao thì nó vinh đâu. Tuỳ ở
anh cống hiến cho nhân dân, cho đất nước…To mấy thì to, anh
đừng tưởng ngồi cao bao nhiêu thì vinh bấy nhiêu…đâu phải?
Anh tưởng (anh) là tổng bí thư, là uỷ viên bộ chính trị là
ghê gớm lắm…? Vừa bước ra khỏi cái ghế là cái nhục nó
đổ xuống đầu anh ngay. Một người như nhạc sĩ Văn Cao, khi
nằm xuống, hàng nghìn vong hoa và trướng, nhân dân cả nước
khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một người nào lại
không hơn một lần đứng nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc
ca! Biết bao thế hệ hát những ca khúc của Văn Cao: Thiên thai,
Suối mơ, Đàn chim Việt; Làng tôi; Sông Lô; Thăng Long; Hành
khúc tiến về Hà Nội; ca ngợi Hồ Chủ Tịch…Trong dòng
người viếng Ông, đưa Ông về nơi an nghỉ đời đời, có
đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đến người đạp
xích lô, người quét rác đường phố Thủ đô Hà Nội. Mộ
ông ở Mai Dịch những ngày sau rượu trắng người ta để trên
mộ ông.

Vậy "cái quan định luận" nằm xuống thì cái mồ anh thế
nào?

Trịnh Công Sơn không có chức tước gì cả, nằm xuống…một
nghìn năm trăm vòng hoa trắng (ông không có vợ) cái đó làm ta
suy nghĩ chứ. Đến khi bà Khánh Ly, một ca sĩ, vừa khóc vừa
nói qua sóng đài BBC:

Ông Trịnh Công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một ca sĩ
không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh Công Sơn mà cả Sài Gòn
biết đến tôi và sau này bao nhiêu người biết đến tôi là
Khánh Ly.

Trịnh Công Sơn không đi với tôi, người ta cứ tưởng tôi là
người yêu, có thể là vợ, nhưng không! Ông Trịnh Công Sơn
không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương, sinh ra
ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát cho quê hương, và
khi đất nước có biến cố người ta nghĩ Trịnh Công Sơn sẽ
đi với tôi, nhưng không, Trịnh Công Sơn người của quê hương
và ở với quê hương. Có người lầm tưởng ông theo cộng
sản sau năm 75. Không, ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo
quê hương. Vì vậy, khi ông sang Pháp, ông không dám đi đâu
cả, ông ở trong một quán Việt Nam ở Pari, vì có kẻ muốn
giết ông, coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh Công Sơn
là người của quê hương, không bao giờ ông sang một nước
khác nói là quê hương thứ hai của mình. Hôm nay tôi khóc ông
là vì nếu không có ông thì cũng không có tôi. Nhưng mà người
như tôi cũng không lôi kéo được ông đi. Đến khi ông sang
thăm nước Pháp, hai người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà
phê trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại những
đêm mưa Sài Gòn, chiến tranh trùm khắp quê hương "hát cho
đồng bào nghe", "dậy mà đi đồng bào ơi".

Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất quê hương, đó là
Trịnh Công Sơn của quê hương, ông không có riêng tư gì hết.
Một nghệ sĩ, chỉ đi hát mà để niềm thương tiếc trong lòng
nhiều người. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn đọc điếu văn trước
mộ Trịnh Công Sơn.

Nhắc lại 1.500 vòng hoa trắng, người đi tiễn biệt Trịnh
Công Sơn toàn đi bằng xe gắn máy, nườm nượp suốt từ thành
phố đến nghĩa trang và rất đặc biệt trong đám tang này có
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiễn đưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Tôi thấm thía một bài học: "Chức tước nó làm lợi ích cho
nhân dân người ta quý. Làm người thày thuốc chữa được
bệnh cho nhân dân đó là hạnh phúc. Người thầy giáo truyền
kiến thức, học vấn cho học trò, người cán bộ hoạt động
trên địa hạt công tác của mình…làm được việc có ích,
nhà văn viết những trang sách không xu thời, không bóp méo sự
thật, không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những trang
sách đó người đời ghi nhận.

Lời cảm ơn của nhà trường:

Thưa nhà văn Sơn Tùng.

Hôm nay là buổi học cuối cùng của khoá 40 lớp "Đào tạo
cán bộ quản lý ngành giáo dục" và là buổi sinh hoạt cuối
cùng khoá học trên hội trường.

Cũng như người đạo diễn của một vở kịch, màn cuối cùng
trước khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất,
hay nhất và gây ấn tượng.

Hôm nay, để có món quà chia tay các đồng chí trước khi ra
về, nhà văn Sơn Tùng, chuyên gia nghiêm cứu về Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, được mệnh danh "Nhà Hồ Chí Minh Học" đến nói
chuyện với chúng ta về "Chân Dung Một Người" mà tên tuổi
của Người gắn liền với tinh hoa và khí phách dân tộc. Sự
nghiệp của người gắn liền với quá khứ đau thương và
lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hồ
Chí Minh muôn vàn kính yêu, và thực tế ý tưởng của tôi
được nhà văn đáp lại bằng những mẩu chuyện của nhà văn
hôm nay, tôi xin đưa ra một suy nghĩ:

Đã đến lúc sự thật phải trả về cho Sự Thật, Lịch Sử
trả về cho Lịch Sử với giá trị nguyên bản đích thực của
nó, dẫu có biết rằng Sự Thật nói ra có sù sì…nhưng vẫn
có giá trị hơn rất nhiều so với lời nói nhận định sai
lạc, giả dối, giá lạnh, không có hồn, nhưng sự thật đó
quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc
biệt Sự Thật do phù hợp với Lương Tâm của chúng ta.

Giờ chia tay với nhà văn SơnTùng đã đến , xin thay mặt anh em
thành tâm chúc nhà văn và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc,
sống thanh thản với một cuộc sống vật chất còn nghèo khó.

Mong nhà văn ghi nhận cho một điều, đối với anh em chúng tôi
những giá trị tinh thần mà nhà văn đã đem đến cho chúng tôi
trong khóa học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng tôi.

Trước khi ra về, một lần nữa xin cảm ơn.

(Thời điểm Đại hội IX sắp khai mạc)

PHẦN PHỤ LỤC

Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:

1. Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp và nói chuyện với Đại tá
CCB Cao Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết tôi
không thể quyên, theo lời kể của đ/c Cao Nham về cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Lê Duẩn
nói với Bác Hồ: Đề nghị Bác để tôi đánh trận này nếu
không thắng tôi xin từ chức Tổng bí thư nhưng với điều
kiện Bác phải cách chức Võ Nguyên Giáp (? Không nói lý do).

Vào trận đánh kết quả không như ý ông Duẩn. Đến đợt 2
ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề nghị trên, kết quả
cũng không đạt như ý ông. Tiếp đến đợt 3, một lần nữa
ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị trên, nhưng kết quả cũng
không hơn gì các đợt trước.

Vậy là cả 3 đợt của Tổng tiến công và Nổi dậy như ông
Duẩn chủ trương không đạt theo ý định của ông, đương
nhiên là ông phải "từ chức" như ông tự xác định với
Bác chứ, "quá tam" mà, nhưng không thấy ông tỏ thái độ
nào cả (trong câu chuyện của đồng chí Cao Nham).

Tuy nhiên (có thể theo tôi hiểu) Bác Hồ cũng không muốn có
sự xáo trộn nhân sự xảy ra khi sự nghệp giải phóng miền
Nam chưa hoàn thành nên Bác bản chú cứ làm Tổng bí thư vì
chú có uy tín với đồng bào miền Nam. Còn chú Giáp giỏi quân
sự thì cứ để chú ấy làm Bộ trưởng Quốc phòng.

2. Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và
ông Giáp không tán thành, nhưng thiểu số phải phục tùng,
phải chấp hành, nhưng vì lợi ích của cách mạng không để
tổn thất cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề hỏi ông
Giáp: – Có cách nào làm giảm nhẹ thiệt hại? Ông Giáp nói:-
Chỉ còn cách đánh các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt
lực lượng địch ra ngoài này.

Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường
9: Côn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, A Sẩu, A Lưới…Địch phải
kéo ra 4 sư đoàn đối phó ở ngoài này, và tổng thống Giôn
xơn đã có một câu tuyên bố phải tử thủ với Khe Sanh, chính
vào lúc đó.

3. Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn dám đề nghị với Bác
sự tự khẳng định: Nếu không thắng thì (tôi) xin từ chức?

Câu hỏi này có thể được giải đáp với mẩu chuyện của
ông Mười Hương như sau:

Năm 1968, khi tôi còn công tác ở K.68 (Bộ CA) (tôi về Bộ CA
tháng 8/1966, sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại giao). Ông
Mười Hương là Cục trưởng (thay ông Nguyễn Thế Tùng về
hưu). Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán cách Hà Nội
30Km, ông Mười Hương nói chuyện với cán bộ P.5 (K.68) có tổ
công tác của tôi, ông nói: – ý định của ta trong cuộc TTC-ND
Tết Mậu Thân (1968) là: chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đánh
sứ quán Mỹ bắt Matin, đánh dinh Độc lập bắt Nguyễn Văn
Thiệu, để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài Phát thanh Sài
Gòn.

Nhưng trận đánh diễn ra không suôn sẻ như ý muốn của ông
(Duẩn), vì đại sứ Matin khi đó ở cách sứ quán 200m, còn
tổng thống Thiệu thì về Cần thơ ăn tết, do không nắm sát
tình hình đó nên không bắt được chúng (theo lời kể của
ông Mười Hương). Vì thế nên mới có đợt 1, đợt 2, rồi
đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm được đài phát thanh Sài Gòn
từ đợt 1 rồi, nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy
chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng cũng không
tóm được Matin và Thiệu, nên lực lượng chiếm đài phát
thanh vẫn cứ phải cố thủ để chờ tiếp đợt 3 (xem sao). Và
kết quả thì ai cũng đã biết.

Ông Mười Hương nói tiếp: Năm 1967 Bác có ý vào Nam bằng đi
bộ, Bộ chính trị không đồng ý vì tuổi tác sức khoẻ của
Bác (có lẽ chỗ này trùng với câu truyện ông Sơn Tùng nói
về hội nghị 3 nước Đông Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy
giờ). Nên ta cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68,
chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam theo nguyện vọng
của Bác. (Câu chuyện này chính xác đến đâu thì tôi không
rõ, nhưng đấy là câu chuyện của ông Mười Hương nói ở P.5
chúng tôi năm đó).

Đến đợt 3 cũng không bắt được Matin và Thiệu thì cơ hội
"bất ngờ" không còn nữa và địch phản công lại, thế là
chủ trương TTC và ND nhằm mục đích tối thượng không đạt
được, tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán
với ta ở Paris.

4. Về cuộc đàm phán Mỹ – Việt ở Paris ta đã chuẩn bị
từ năm 1963, khi tôi còn đang học khoá 3 Khoa đối ngoại của
trường Kinh Tài.

Trong buổi nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh
viên nêu câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về tình hình
chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng nào và triển
vọng, thì ông Xuân Thuỷ nói: – Cuộc chiến diễn ra ác liệt
thế nào thì ta đã biết, còn về đàm phán thì cũng vì thế
mà ta đã xác định thế này, rồi ông đọc hai câu thơ (ông
Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Ngoại giao, là nhà báo, và cũng là nhà
thơ):

"Đàm đàm đánh đánh đàm đánh đánh

Đánh đánh đàm đàm đánh đàm đàm"

Rồi ông giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn ra cù
nhầy kiểu như thế, mà đúng là thế thật. Hội nghị Pari kéo
dài suốt từ năm sau tết Mậu Thân 1968 cho đến đầu năm 1973
(5 năm).

Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được
rút khỏi chức Bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng đoàn
đàm phán ở Pari. Ông Nguyễn Duy Trinh lên làm Bộ trưởng
ngoại giao từ đó.

Dưới đây là mẩu chuyện nhỏ về ông Hà Văn Lâu. Bác Hồ
mời ông Hà Văn Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà Văn Lâu hỏi
Bác về công tác sắp được giao, thì Bác nói:

Tên chú thế nào thì công tác của chú cũng thế.

Đó chính là Hội nghị Pari là nơi ông Hà Văn Lâu công tác lâu
năm ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm.

Câu chuyện tôi được nghe kể lại:

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng có hỏi Cụ
Hồ:

Bây giờ đạo đức dạy (học) cái gì?

Cụ Hồ nói:

Cần – Kiệm – Liêm – Chính.

Chắc là ông Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới tất
cả vì khi đó cũng đang có phong trào vận động xây dựng
đời sống mới thì dạy đạo đức cũng phải là "đạo
đức mới" (Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội
chủ nghĩa như bây giờ), nên ông Tưởng mới nói:

Cái (đạo đức) đó cổ quá.

Thì Cụ Hồ trả lời như thế này với ông Tưởng:

-"Thế thì ngô, lúa có từ bao giờ?"

(mất một đoạn) …có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức "Cần
– Kiệm – Liêm – Chính" là 4 đức tính thuộc về đạo
đức nhân văn đã đưa xã hội tiến bộ và phát triển không
ngừng đến ngày nay, và như vậy thì nó cũng không bao giờ cũ,
không bao giờ cổ, cũng như ngô, lúa chúng ta ăn có từ thượng
cổ đến nay nó đang nuôi chúng ta.

Xã hội loài người mà xa rời 4 đức tính đó thì chắc ai
cũng hiểu là thế nào rồi.

Đó là ý nghĩa của một trong những câu thành ngữ cổ xưa
"còn giá trị với thời đại" như nhà văn Tùng Sơn nói ở
trường đào tạo cán bộ quản lý của ngành giáo dục ngày 11
tháng 4 năm 2001.

Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên
Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công (Khu tập thể Nam
Đồng – Đống Đa – Hà Nội).

Sau khi nhận xét đánh giá công lao cống hiến vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nhà của một số
đồng chí lãnh đạo kể cả khuyết diểm thiếu sót, thư đã
viết.

+ Mậu Thân 1968, mọi người không đồng tình đánh đợt 2,3.
Vốn không phải thời cơ phút huy vai trò của chủ lực, lại
không còn điều kiện phát triển tiến công mà tổng khởi
nghĩa thì ngay từ đầu đã không khuấy lên được.

+ Việc thành lập Quân đoàn, cuối 1970 anh Văn đã đề ra,
nhưng bị bác; bị thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị
Thiên cũng vậy. Đến năm 1973 (tháng 10) mới có Quân đoàn 1,
sau đó là Quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm sư đoàn là
cấp số cộng, mà Quân đoàn là cấp số nhân.

+ Chiến dịch Trị Thiên năm 1972, nếu giữ nguyên ý kiến anh
Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ yếu thì sẽ có cánh
vu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả chiến dịch sẽ khác
xa…

+ Đánh CPC, anh Văn cho rằng chỉ nên đánh đến Sông Mê Kông,
dừng lại và kéo Sihanuk về để cách mạng bạn tự phát
triển, tự giải phóng. Ta không mang tiếng, không sa lầy, không
bị cô lập…

+ Trong các cuộc nói chuyện với đồng bào, cán bộ, không ít
lần đồng chí Lê Duẩn đã có lời phê phán, phản bác Bác
Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói:

"Giáp thì sợ Mỹ. Bác thì sợ Trung Quốc. Bác không sát thực
tế, Bác không có điều kiện nghiên cứu lý luận cơ bản. Tôi
đây, tôi nghiên cứu rất nhiều lý luận cơ bản. Bác chịu
ảnh hưởng nho giáo, Khổng Tử… thậm chí có những lần Bác
đã đến hồi lẩm cẩm".

(mất một đoạn) … "Thời thắng Mỹ" dưới bút danh Thép
Mới. Quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận "Thời thắng
Mỹ" là thời đại gì? Đã đăng được 16 bài trên báo Nhân
dân. Do làn sóng phản ứng của đảng viên, cán bộ nhân dân,
buộc phải đình chỉ không được đăng tiếp nữa. Song với 16
bài đã đăng, tác giả và Báo Nhân dân đã kịp chấm dứt và
cắt ngang thời đại Hồ Chí Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ
Chí Minh ở đây với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu
cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là chống phong
kiến thì chậm tiến hành cải cách ruộng đất. Đối với
chế độ xâm lược thì hiệp định Giơ-ne-vơ là thoả hiệp
với địch, là ảo tưởng, là ngăn cản nhân dân Việt Nam,
Lào, Camphuchia giành thắng lợi hoàn toàn…

+ Cũng trên báo Nhân dân, bài báo giới thiệu tác phẩm "Bức
thư vào Nam" của đồng chí Lê Duẩn, đã tôn xưng đồng chí
Lê Duẩn là "tổng công trình sư của đường lối đánh Mỹ
và Tổng tư lệnh trên thực tế" chỉ một câu gắn gọn gồm
vẻn vẹn 16 từ, bài báo đã đồng thời phủ định hai nhân
vật lịch sử trọng yếu là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.
Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, là đại biểu cho ý chí và khí phách của toàn dân
tộc, là người thiết kế đường lối đánh Mỹ đã được
manh nha từ chiến thắng Điện Biên Phủ, từ Hộinghị
Giơ-ne-vơ. Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân uỷ Trung ương và
Tổng tư lệnh không thể là danh nghĩa (có văn bản chính thức
của Trug ương) mà là thực quyền chỉ huy chiến đấu và hoạt
động…

+ Nghị quyết 15 năm 1959 là do Bộ Chính trị phân công Võ
Nguyên Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng và
Trần Quang Huy tại Đồ Sơn…

+ Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của
ông (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là:
trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến
phát triển, và phải đặt nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu; thì chắc chắn là hạn chế được những mất cân đối
nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn
đến khủng hoảng đời sống.

(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ)
để minh chứng rằng nhà văn Sơn Tùng đã nói đúng).

______________________

[*] Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một
tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước,
bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10099), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét