Một đặc điểm của chế độ Lenin là <span
class="underlined-text">đảng cộng sản độc quyền trên tất cả
các lĩnh vực xã hội</span>. Khi chế độ cho phép xuất hiện
một số yếu tố tư bản chủ nghĩa và tự do, như ở Việt Nam
và Trung Quốc ngày nay, vòng kiểm soát của đảng đối với
dân chúng sẽ lỏng đi, tạo ít nhiều không gian cho xã hội dân
sự. Việc xã hội dân sự nhen nhóm ở Việt Nam xuất phát từ
hai nguyên nhân chính yếu. Thứ nhất, sự xuất hiện tự do kinh
tế, dù vẫn bị giới hạn, cũng đã tạo ra một giới trong xã
hội, bao gồm các đơn vị tư nhân và những cá thể độc lập
về kinh tế. Thứ hai, đang tồn tại xung đột trong nội bộ
giới tinh hoa cầm quyền, giữa phe bảo thủ và phe hiện đại.
Do ý thức hệ của Nhà nước ủng hộ phe bảo thủ, nên phe
hiện đại ở thế yếu hơn, với những nhân vật nằm trong
chính quyền mà lại đóng vai trò của một đối tác liên hiệp
bé nhỏ. Trong bối cảnh đó, phe hiện đại có nhu cầu tận
dụng và mở rộng bộ phận nhân dân không chịu sự kiểm soát
của Nhà nước, để họ có thể lên tiếng khi không tán thành
ý thức hệ của nhà nước và đường lối chính thức của
Đảng.
Chế độ toàn trị ở Việt Nam đã nới lỏng tay được một
phần tư thế kỷ, nhưng trong suốt khoảng 15 năm đầu tiên, xã
hội dân sự gần như không thể bước chân vào cửa, chứ
đừng nói đến chuyện cất cánh. Rào cản chủ yếu đối với
xã hội dân sự ở Việt Nam là mối lo ngại hoang đường của
Đảng rằng xã hội dân sự sẽ chống lại họ. Nói đúng hơn,
đó là bởi vì phe bảo thủ còn quá mạnh. Nếu quyết tâm
hiện đại hóa đất nước, Đảng phải chấp nhận rằng xã
hội phải được cai trị bởi luật pháp và các hội đoàn tư
nhân phải được phép hoạt động. Đầu năm 1992, chính phủ
bắt đầu soạn thảo luật về các tổ chức dân sự để
quản lý hoạt động ngày càng mở rộng nhanh chóng của các
hội đoàn. Nhưng sau gần hai thập kỷ, sau 11 bản dự thảo,
luật vẫn chưa được thông qua. (25)
Tuy thế, trong 5 năm vừa qua, xã hội dân sự Việt Nam dường
như đã ngấp nghé trên ngưỡng cửa. Có thể thấy một số
chỉ dấu đáng chú ý của bước phát triển này. Đầu tiên là
sự trở lại của các tổ chức thảo luận chính sách độc
lập. Kể từ năm 2005, hàng trăm công dân bắt đầu hình thành
những đảng chính trị mới và những tổ chức mới thách
thức sự cai trị của Đảng cộng sản. (26) Vào tháng 9/2007,
sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải tán Nhóm Nghiên cứu
của Thủ tướng mà người tiền nhiệm để lại cho ông, một
vài trí thức nổi bật, trong đó có những thành viên hàng
đầu của nhóm Nghiên cứu của Thủ tướng cũ, đã lập nên
một nhóm chuyên gia cố vấn chính sách độc lập đầu tiên ở
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Viện Nghiên cứu Phát triển
(IDS). Thành viên của nhóm chuyên gia cố vấn này bao gồm những
nhân vật như các chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, Trần Đức
Nguyên, và Trần Việt Phương, những người đã từng làm cố
vấn cao cấp cho nhiều thế hệ lãnh đạo đảng và chính
quyền; cựu đại sứ Nguyễn Trung, cựu cố vấn tương đương
cấp bộ trưởng cho cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt; cựu Phó
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Chi
Lan; những học giả hàng đầu như nhà toán học Hoàng Tụy và
sử gia Phan Huy Lê; và các nhà tư tưởng xuất chúng như Nguyễn
Quang A, Tương Lai, và Nguyên Ngọc.
Trong thập niên qua, không gian cho những thảo luận của công
chúng đã mở rộng theo cấp số nhân nhờ sự ứng dụng các
công cụ truyền thông trên nền Internet, từ email tới các diễn
đàn trên mạng, và gần đây hơn là blog và Facebook. Báo chí
quốc doanh cũng giành được quyền tự quản đáng kể trước
chính quyền. Một ví dụ nổi bật là VietNamNet, cơ quan thông
tin điện tử với những website được yêu thích như
vietnamnet.vn và tuanvietnam.net. Được sáng lập năm 1997 bởi
Nguyễn Anh Tuấn, một kỹ sư máy tính có tư duy đổi mới,
VietNamNet tiến nhanh chỉ trong vòng vài năm để vượt lên hàng
đầu trong làng báo Việt Nam và trở thành diễn đàn chính cho
các quan điểm độc lập và ủng hộ cải cách trong các vấn
đề chính trị. Bị coi như một trang báo mạng cứng đầu
cứng cổ, vào năm 2007 nó bị đặt dưới sự quản lý trực
tiếp của Bộ Thông tin và Truyền thông mà đứng đầu là vị
bộ trưởng bảo thủ Lê Doãn Hợp. Tuy nhiên sau đó, VietNamNet
nổi lên còn mạnh hơn như là người cổ súy cho cải cách
mạnh mẽ hơn nữa. (27) Truyền thông trên mạng dày đặc mở
đường cho các hoạt động trong đời thực và tràn cả vào
các hoạt động đó. Một trường hợp đáng kể và là dấu
hiệu của xã hội dân sự mới hé lộ ở Việt Nam là cuộc
biểu tình vào tháng 12/2007 do các nhóm người dùng Internet tổ
chức, nhằm chống lại kế hoạch của Trung Quốc thành lập
một đơn vị hành chính để quản lý hai quần đảo trên Biển
Đông mà Việt Nam đòi chủ quyền.
Có thể nói có ba yếu tố đã dẫn dắt sự nổi lên của xã
hội dân sự ở Việt Nam. Thứ nhất là quá trình hội nhập
quốc tế sâu hơn, được đánh dấu bởi việc Việt Nam gia
nhập WTO năm 2006-2007. Đó không chỉ đơn giản là sự tham gia
của Việt Nam vào một hiệp định thương mại toàn cầu, mà
là bước hoàn tất sự di chuyển của Việt Nam từ một thế
giới này sang một thế giới khác – từ cộng đồng xã hội
chủ nghĩa sang cộng đồng phi xã hội chủ nghĩa. Yếu tố thứ
hai nằm đằng sau sự trỗi dậy của xã hội dân sự ở Việt
Nam là sự lan truyền những công cụ truyền thông có khả năng
giúp các thường dân tăng cường giao tiếp, kết nối giữa họ
với nhau, và khiến cho việc kiểm soát của Nhà nước trở nên
khó khăn hơn. Yếu tố thứ ba là ý thức về mối đe dọa từ
Trung Quốc. Điều này tạo ra một cơ sở đạo đức và một
lý do – mà chính phủ có thể chấp nhận được – cho sự
tồn tại của các hoạt động thuộc xã hội dân sự mà, tuy
không phải do chính quyền châm ngòi, nhưng dường như là để
bảo vệ lợi ích quốc gia.
Năm 2009 cũng chứng kiến một bước phát triển mạnh mẽ của
xã hội dân sự ở Việt Nam. Vào ngày 5/1, ngày mà Thủ tướng
Dũng chủ trì một cuộc họp với nội các để thảo luận về
đại dự án khai thác bauxite ở miền trung Việt Nam, và Ban
Chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam bắt đầu kỳ họp thứ 9,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị khai quốc công thần duy
nhất còn sống của chế độ cộng sản – viết một bức thư
cho Thủ tướng kêu gọi dừng dự án bô-xít. Bức thư ban đầu
không được đăng tải ở đâu, nhưng vào ngày 10/1, một bản
copy của nó đã bị rò rỉ tới công chúng trên website nổi
tiếng viet-studies.info. Ngày 14/1, một ngày sau khi kỳ họp của
Đảng đã bế mạc và ngay khi có tin chính phủ quyết định
tiếp tục dự án, báo điện tử VietNamNet quyết định công
bố bức thư của Đại tướng trên website, khiến cho quan điểm
chống đối được đông đảo công chúng trong nước biết
đến hơn. Trong thư, Tướng Giáp chỉ ra mối lo lắng của các
nhà khoa học và nhà hoạt động về "rủi ro nghiêm trọng
đối với môi trường tự nhiên và xã hội mà các dự án khai
thác bauxite có thể gây ra". Ông cũng viết rằng vào đầu
thập kỷ 80 của thế kỷ trước, ông đã từng giám sát một
nghiên cứu về việc có nên khai thác bauxite trong khu vực hay
không, và các chuyên gia Xô Viết đã khuyên là không nên tiến
hành dự án vì cái "nguy cơ gây thiệt hại lâu dài, rất
nghiêm trọng và không thể tính nổi về mặt sinh thái mà dự
án gây ra không chỉ cho cư dân địa phương mà cho toàn bộ dân
chúng và khu vực đồng bằng Nam Trung Bộ". (28)
Mặc dù dưới thời Tướng Giáp, chính quyền đã quyết định
không làm bauxite, nhưng một thập niên sau trong "thời kỳ công
nghiệp hóa", họ lại đảo ngược quyết định cũ. Trong một
tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc hồi tháng 12/2001, Tổng Bí
thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh đã cam kết hợp tác với
Trung Quốc để khai thác bauxite ở miền Trung Việt Nam. (29)
Điều này có vẻ giống như một món quà của ông Mạnh nhân
chuyến thăm mở màn sang Trung Quốc sau khi trở thành Tổng Bí
thư Đảng, nhưng cũng có thể là nó đã được thực hiện theo
yêu cầu của Trung Quốc, khi Việt Nam mời các công ty Hoa Kỳ
và Australia nghiên cứu dự án vào những năm 90. Tuy nhiên, sự
can dự của Trung Quốc vào một dự án lớn như thế ở một
khu vực quan trọng chiến lược như thế, xét bề ngoài, không
thể được phê chuẩn bởi phe hiện đại trong chính phủ, trong
đó có thủ tướng lúc bấy giờ là ông Phan Văn Khải. (30)
Một mặt, phe hiện đại cố trì hoãn dự án với Trung Quốc.
Mặt khác, họ nỗ lực đa quốc gia hóa nó bằng cách lôi kéo
Thái Lan, Nga, Mỹ, và Úc. Tuy nhiên, dự án đã được tăng tốc
sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành Thủ tướng thay ông Phan
Văn Khải vào năm 2006. Tháng 6/2008, trong chuyến thăm của Tổng
Bí thư Đảng Nông Đức Mạnh sang Trung Quốc, hai bên đã ra
tuyên bố chung nhắc lại lợi ích của Trung Quốc khi hợp tác
phát triển ngành bauxite của Việt Nam. Sau chuyến thăm của ông
Dũng tới Bắc Kinh vào tháng 10/2008, hàng trăm người Trung Quốc
đã đến làm ở những nơi khác nhau trong hai tỉnh.
Quyết tâm của ông Dũng thực hiện cam kết cũ của ông Mạnh
thật khó hiểu. Nhưng quan sát các tình huống, có thể thấy
một số khía cạnh thú vị. Trong những tháng trước đó,
khủng hoảng tài chính đã đến cùng với việc Nhật Bản
dừng một khoản viện trợ cả gói 1 tỷ USD. Quyết định của
Nhật xuất phát từ vụ scandal hối lộ có liên quan tới Bí
thư Thành ủy TP HCM Lê Thanh Hải, một đồng minh thân cận của
ông Dũng. Tại kỳ họp thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương
ĐCS Việt Nam (2-4/10), ông Dũng bị phê bình gay gắt vì hoạt
động điều hành kinh tế yếu kém của nội các. (31) Theo báo
cáo, ông Mạnh đã yêu cầu ông Dũng từ chức Thủ tướng. Sau
đó, các nguồn tin Trung Quốc báo rằng ông Dũng đã được
Trung Quốc trợ giúp đáng kể về kinh tế nhân chuyến thăm
tháng 10 của ông.
Mặc dù những phê phán về dự án bauxite đã xuất hiện trong
bộ phận báo chí ủng hộ cải cách từ đầu năm 2007 khi Thủ
tướng phê chuẩn, nhưng dự án chỉ trở thành vấn đề nóng
bỏng khi nó bắt đầu được triển khai vào cuối năm 2008. Sau
lá thư tháng 1-2009 của Tướng Giáp, nó mau chóng trở thành
chủ đề của một cuộc tranh cãi lớn trên toàn quốc. Đó là
vấn đề gây chia rẽ thậm chí ngay trong nội bộ ban lãnh đạo
cao nhất của ĐCS. Vào cuối tháng 4, Bộ Chính trị ra một
"nghị quyết" mang tính thỏa hiệp, cam kết tiếp tục dự
án nhưng sẽ chú ý nhiều hơn đến các khía cạnh an ninh quốc
gia, sinh thái và xã hội của nó. Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Bí thư thường
trực Trương Tấn Sang – nhân vật thứ hai trong bộ máy của
Đảng, đều được cho là ở trong số những người phản
đối thỏa thuận về bauxite, mặc dù về mặt công khai, họ
phải ủng hộ quan điểm của chính phủ và do đó phải giấu
ảnh hưởng của họ đằng sau dự án.
Trong khi thỏa thuận hợp tác về bauxite chia rẽ Đảng thì nó
lại là yếu tố đoàn kết xã hội ở bên ngoài. Nó góp phần
hình thành nên một liên minh giữa những người theo chủ nghĩa
dân tộc và những người bảo vệ môi trường. Trong liên minh
này, những mối lo ngại về an ninh quốc gia hòa trộn với lo
ngại về an ninh con người và đều tập trung vào một cái
đích – Trung Quốc. Năm 2009 chứng kiến một làn sóng tranh cãi
về những khía cạnh khác nhau của hiểm họa Trung Quốc, từ
vấn đề công nhân Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp có tới
hàng nghìn người, đến các sản phẩm độc hại của Trung
Quốc tràn ngập thị trường nội địa, Trung Quốc tấn công
ngư dân Việt Nam, rồi vi phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam
trên Biển Đông.
Lo ngại về an ninh xen lẫn với mối lo về con người ẩn trong
phong trào chống Trung Quốc đã đặt phong trào lên một cơ sở
đạo đức cao. Tình hình vừa khuyến khích những người phản
đối vừa làm chính quyền khó đàn áp hơn. Tháng 6, luật gia
Cù Huy Hà Vũ đệ một lá đơn chưa từng có tiền lệ, kiện
Thủ tướng vi phạm luật pháp với việc cố gắng đẩy nhanh
dự án khai thác bauxite. Bốn ngày sau khi Bộ Chính trị nhóm
họp (26/4) để xem xét lại chính sách khai thác bauxite, một
bức thư kiến nghị chống dự án bauxite do 135 học giả và trí
thức ký tên đã được đệ trình lên Quốc hội. Bản kiến
nghị nói rằng "Trung Quốc vốn nổi tiếng thế giới như
một nước gây ô nhiễm lớn nhất và còn tai tiếng về nhiều
vấn đề khác". (32) Những người đứng đầu trong nhóm kiến
nghị – Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Giáo sư Nguyễn Thế Hùng và
nhà văn Phạm Toàn – còn đi xa hơn, lập một website tên là
"Bauxite Vietnam", mà trong vài tháng đã đạt kỷ lục về số
người vào đọc. Như Carl Thayer đã ghi lại, "Cho đến tháng
5/2009, mạng lưới chống bauxite có từ năm 2008 đã phát triển
thành một liên minh quốc gia bao gồm các nhà môi trường, cư
dân địa phương, giới khoa học, kinh tế, các sĩ quan quân
đội hưu trí và cựu chiến binh, quan chức nhà nước hưu trí,
các nhà khoa học xã hội, học giả và các trí thức khác,
những đơn vị truyền thông, và các đai biểu quốc hội.
Những người chỉ trích đều là tầng lớp tinh hoa dòng chính
thống". (33) Mặc dù sự phản đối của công luận đối với
việc khai thác bauxite không mở rộng tới những lãnh tụ tôn
giáo và những người bất đồng chính kiến, song cái mới và
đáng chú ý ở những hoạt động này của xã hội dân sự
trong năm 2009 là sự nổi lên của phe bất đồng chính kiến
thuộc giới tinh hoa chính thống, được kích thích bởi các
mối lo ngại chung về an ninh quốc gia và an ninh con người.
Chương này tập trung vào sự nổi lên của xã hội dân sự tinh
hoa chủ đạo đó, do nó gần gũi với quyền lực nhà nước, do
có nhiều nét tương đồng với những gì đã xảy ra ở Đông
Âu vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. (34)
Chính quyền phản ứng lại phong trào bất đồng chính kiến
bằng cách mở rộng đàn áp những người chỉ trích. Từ cuối
tháng 5 tới đầu tháng 7/2009, một số nhà hoạt động ủng
hộ dân chủ, bao gồm Trần Huỳnh Duy Thức, một doanh nhân trong
lĩnh vực Internet, Lê Công Định, một luật sư nổi tiếng, và
Nguyễn Tiến Trung, một nhà hoạt động tiếng tăm, bị bắt vì
tội "tuyên truyền chống phá nhà nước", một tội mà đến
tháng 12 sẽ được điều chỉnh để bao gồm cả việc vi phạm
Điều 79 với hình phạt cao nhất là tử hình vì "tiến hành
các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". (35)
Vào ngày 24/7, Thủ tướng ký một nghị định gọi là Quyết
định số 97 giới hạn việc nghiên cứu khoa học và công
nghệ. Theo nghị định này, phản biện về các vấn đề chính
sách – một công cụ mà gần đây mới được cho phép để
hợp lý hóa công tác quản lý điều hành – không còn được
phép công khai nữa mà chỉ được gửi tới cơ quan chức năng
phù hợp. Vào ngày 14/9, ngày trước khi Nghị định có hiệu
lực, nhóm chuyên gia cố vấn độc lập duy nhất của Việt Nam,
IDS, quyết định tự giải thể để phản đối. Ngày 28-8, Bộ
Công an đã đưa ra những chỉ dẫn cấm các bình luận chính
trị trên blog và hạn chế việc viết blog ở mức chỉ nói về
các vấn đề cá nhân. Cùng khoảng thời gian đó, ba blogger nổi
bật bị bắt và một nhà báo danh tiếng bị sa thải.
Nhà báo Huy Đức, người viết blog dưới cái tên "Osin"
(Người giúp việc nhà), đã bị sa thả khỏi tờ Sài Gòn Tiếp
Thị sau khi viết một bài trên blog ngợi ca sự sụp đổ của
Bức tường Berlin và buộc tội Liên Xô ngày trước đã áp
đặt lên Đông Âu "một chế độ cướp đoạt của con
người những quyền căn bản". (36) Ông Đức chẳng những
không phải là người chống đối, mà ông còn có quan hệ thân
thiết với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và là người viết
tiểu sử cho ông Kiệt. Ba blogger bị bắt gồm Bùi Thanh Hiếu
và Phạm Đoan Trang ở Hà Nội, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ở Nha
Trang. Hiếu, viết blog dưới cái tên "Người Buôn Gió", nổi
tiếng với loạt truyện "Đại Vệ chí dị", nhại lối văn
phong cổ của Trung Quốc và kể một câu chuyện hư cấu về hai
nước Vệ và Tề, lột trần những mục tiêu phản quốc của
các nhà lãnh đạo nước Vệ và vị thế khúm núm của Vệ
trước Tề, như là hậu quả của những mục tiêu đó. Vệ và
Tề là hai nước ở Trung Hoa thời cổ, nhưng chữ cái đầu
trong tên của hai nước, và các hoạt động của các nhà lãnh
đạo, theo như mô tả của tác giả, thì ám chỉ bóng gió tới
Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, như Hiếu kể lại với BBC
Việt ngữ về sau này trong một cuộc phỏng vấn, anh bị bắt
vì tham gia in ấn và phát tán áo phông có in khẩu hiệu chống
dự án bauxite và ủng hộ yêu sách của Việt Nam đối với
chủ quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. (37) Cũng có
những hoạt động khác mà vì đó, Quỳnh, người viết blog
với tên gọi "Mẹ Nấm" bị công an thẩm vấn. (38) Blogger
thứ ba, Đoan Trang, là biên tập viên tạp chí online TuanVietNam,
một chuyên trang của VietNamNet, và đã viết vài bài báo ở
đây cũng như các website khác phê phán vai trò của Trung Quốc
trong sự kiện Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, vai trò của
Trung Quốc như một cường quốc bá quyền, và các yêu sách về
lãnh thổ của họ trên Biển Đông. Cô bị bắt có lẽ không
phải do những bài viết này như báo chí quốc tế giả định,
mà vì đã đưa tin về một vụ can thiệp của tham tán Đại
sứ quán Trung Quốc với Bộ Thông tin Truyền thông Việt Nam,
tại đó phía Trung Quốc lưu ý rằng các ý kiến mà một số
tờ báo Việt Nam đưa ra là "không thân thiện" với Trung
Quốc và báo chí Việt Nam cần được đặt dưới sự kiểm
soát.
Lo sợ một phong trào được kích thích bởi chủ nghĩa yêu
nước và những tình cảm chống chế độ, phe bảo thủ tổ
chức một chiến dịch chống lại cái họ gọi là "chiến
lược diễn biến hòa bình". Ngày 25/6, Ban Tuyên giáo của
Đảng ra một "concept paper" (bài viết mang tính lý luận khoa
học cơ bản – ND) tuyên truyền về "đẩy mạnh đấu tranh
chống các âm mưu và hoạt động 'diễn biến hòa bình' trong
lĩnh vực văn hóa tư tưởng". Bài viết lưu ý người đọc
rằng nó ra đời sau nghị định 24/4/2009 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng. Nó mô tả hoàn cảnh xuất xứ của chiến dịch
tuyên truyền là, kể từ sau Đại hội lần thứ 10 của Đảng
(năm 2006), có sự trỗi dậy của các chiến lược "diễn
biến hòa bình" và "xâm lăng văn hóa" do các thế lực thù
địch tiến hành nhằm "xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và bản
sắc văn hóa Việt Nam". Các đặc điểm khác của tình hình
là khuynh hướng "tự diễn biến", "tự biến chất", và
"đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa" trong nội bộ các
đảng viên và quan chức chính quyền. Bài viết xác định
phương Tây và Hoa Kỳ là các thế lực thù địch chủ chốt.
Nó coi Lực lượng Gìn giữ Hòa bình của Mỹ là một tổ chức
chuyên về tuyên truyền và các hoạt động phá hoại, và
chương trình giáo dục của Mỹ hợp tác với Việt Nam là
phương thức để biến Việt Nam thành một nước phương Tây.
Bài viết còn khẳng định rằng do bị ảnh hưởng tư tưởng
tự do từ phương Tây, một số lãnh đạo và nhà báo Việt Nam
đã nhấn mạnh thái quá đến vai trò của phản biện và sử
dụng sai "quyền lực xã hội" (các lực lượng xã hội dân
sự) để tấn công vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước
xã hội chủ nghĩa. (39) Đây rõ ràng là một sự dẫn chiếu
đến phe hiện đại. Vì quan hệ thân thiết với phương Tây,
phản biện quyết liệt, và đẩy mạnh xã hội dân sự là
những chính sách lớn mà phe hiện đại ủng hộ, cho nên chiến
dịch tuyên truyền đã thể hiện một động thái đơn phương
của phe bảo thủ trong cuộc đấu tranh chính trị của họ
chống phe hiện đại.
Ngay lập tức sau khi bài viết của Ban Tuyên giáo được công
bố, tờ báo của Đảng ủy TP HCM, Sài Gòn Giải Phóng, cũng
tung ra một loạt bài nhan đề "Học thuyết Mác-Lênin và chủ
nghĩa xã hội – Trào lưu hay quy luật?" (29/6-5/7 và 6-10/10),
mà từ ngày 3/11 sẽ trở thành một chương trình hợp tác với
kênh HTV9 Truyền hình TP HCM dưới cái tên "Quy luật tất
yếu". Chương trình được lên kế hoạch duy trì cho đến
dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập ĐCS, 3/2/2010. Nó nêu những
vấn đề như sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông
Âu và sự trở lại của chủ nghĩa xã hội ở Mỹ Latin, và
cố gắng bóc trần bản chất của chủ nghĩa tư bản thông qua
việc phân tích cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. (40) Vào
cuối tháng 8, tờ Quân Đội Nhân Dân tổ chức một tuyến bài
dài hơi gọi là "Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa
bình" mà sau đó hai tuần sẽ được biến thành một chuyên
mục riêng có tên "Ngăn chặn và đấu tranh với diễn biến
hòa bình". Tuy nhiên, hầu hết những cơ quan truyền thông lớn
khác không tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Tuyên
giáo. Trang web tin tức ủng hộ cải cách, VietNamNet, cùng với
chuyên trang của nó là Tuần Việt Nam, thậm chí còn đẩy mạnh
cuộc thập tự chinh cổ vũ cho điều mà, nếu đánh giá trên
tinh thần của bản "concept paper" kia, sẽ bị coi là "diễn
biến hòa bình", "tự diễn biến" và "đi chệch hướng
chủ nghĩa xã hội".
Cuộc đàn áp của chính quyền lên những người dân tộc chủ
nghĩa và phe hiện đại dường như cũng không tạo được sự
sợ hãi cần thiết. Sau khi được thả, Người Buôn Gió tiếp
tục viết loạt truyện "Đại Vệ chí dị", Đoan Trang thậm
chí còn nổi lên hơn như một người cổ súy cho tinh thần ái
quốc và năng lực quản lý đúng đắn, còn hồi tưởng của
Mẹ Nấm về những ngày bị bắt thì đã được đăng tải
trên vài blog bất chấp việc công an yêu cầu cô dừng viết
blog. Đến cuối năm, Tuần Việt Nam mở một chuyên đề,
"Việt Nam và mô hình phát triển trong thập kỷ mới", tất
cả các bài báo trong chuyên đề này đều đứng trên lập
trường dân tộc và coi sự nổi lên của Trung Quốc vừa như
tham số trung tâm của thế giới hiện tại và tương lai, vừa
như một hiểm họa tiềm tàng. (41) Ở một trong số các bài
báo đó, cựu đại sứ Nguyễn Trung kêu gọi "xây dựng một
chế độ chính trị phù hợp với Tổ quốc", ám chỉ về
việc thay đổi cái chế độ hiện nay đang là phù hợp với
ĐCS. Ông tuyên bố rằng "thành tựu rõ rệt nhất của 25 năm
đổi mới là dân chủ" và lưu ý rằng dân chủ vẫn còn bị
coi là nguy cơ diễn biến hòa bình, đó là lý do tại sao cải
cách tiếp tục bị cản trở. (42)
Việc bài báo của ông Trung không bị gỡ bỏ hé lộ rằng
việc thay đổi chế độ từ chủ nghĩa Lênin sang một nhà
nước dân tộc dân chủ đã đạt được sự ủng hộ đáng
kể trong tầng lớp tinh hoa lãnh đạo ở Việt Nam. Đây cũng là
dấu hiệu cho thấy là, mặc dù phe hiện đại vẫn chưa thể
điều chỉnh thế bất cân bằng về quyền lực giữa họ và
phe bảo thủ, nhưng những hạn chế đối với hành động của
họ đang được nới rộng một cách mạnh mẽ.
<h2>Tự lực trên sân sau của Trung Quốc</h2>
Hai đường lối đối đầu chủ đạo vốn xuất hiện từ nửa
sau của thập niên 80 thế kỷ trước. Khi chủ nghĩa cộng sản
sụp đổ ở Đông Âu vào năm 1989, ĐCS cầm quyền phải đối
mặt với một sự lựa chọn mang tính chiến lược giữa duy
trì chế độ hoặc thay đổi chế độ. Phe bảo thủ quan niệm
chính trị thế giới được dẫn dắt bởi sự đối lập giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản – đã phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn này của lịch sử
– và quan trọng nhất là họ tự xác định Việt Nam như
chiến sĩ "chống chủ nghĩa đế quốc" (nên hiểu là chống
phương Tây). Với quan điểm này, họ muốn duy trì chế độ và
cổ súy cho "ổn định chính trị". Phe hiện đại quan niệm
chính trị thế giới được dẫn dắt bởi lợi ích quốc gia
và toàn cầu hóa ("quốc tế hóa" là thuật ngữ họ hay dùng
vào cuối những năm 1980), và quan trọng là họ tự xác định
Việt Nam là một nước lạc hậu. Trên quan điểm đó, họ đòi
tiến hành cải cách nhiều hơn.
Mấu chốt của chính sách đối ngoại của phe hiện đại là
hội nhập quốc tế. Phe hiện đại nhìn nhận sự thay đổi vai
trò của Việt Nam trên thế giới, từ một nhà nước xã hội
chủ nghĩa chuyển thành một nhà nước dân tộc dân chủ, hội
nhập hoàn toàn vào cộng đồng quốc tế. Cụ thể hơn, họ
nhấn mạnh vào sự hợp tác với các nước láng giềng trong khu
vực, ở Đông Nam Á cũng như toàn bộ châu Á-Thái Bình Dương
rộng lớn hơn, và mối quan hệ gần gũi, ngày càng được
thắt chặt, với các nước công nghiệp phát triển. Ngược
lại, định hướng chính sách đối ngoại chủ đạo của phe
bảo thủ lại là "chống chủ nghĩa đế quốc", bao hàm cả
việc chống phương Tây và chiến lược "diễn biến hòa
bình" đã biết của họ nhằm vào chế độ cộng sản. Bước
vào giai đoạn sau cái mốc 1989, các nhân vật bảo thủ nhận
thấy phương tiện chủ chốt để đạt các mục tiêu của họ
nằm ở việc xây dựng một liên minh chiến lược trên cơ sở
ý thức hệ với Trung Quốc. (43)
Bắt đầu với Nguyễn Văn Linh từ năm 1990 và tiếp tục với
những người kế nhiệm ông Linh là các ông Lê Khả Phiêu và
Nông Đức Mạnh, những Tổng Bí thư ĐCS này đều tìm kiếm
một liên minh chiến lược với Trung Quốc. Mặc dù cụm từ
"đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" chỉ mới chính
thức được công bố vào năm 2008, nhưng Việt Nam, một cách
không chính thức, đã coi Trung Quốc là "đồng minh chiến
lược" từ những năm 1990 rồi. (44) Ưu thế vượt trội của
tinh thần chống chủ nghĩa đế quốc so với tinh thần hội
nhập trong đường lối của Việt Nam sau năm 1989 đã đảm
bảo rằng, không một mối liên hệ nào của đất nước với
những quốc gia quan trọng chiến lược nào khác ngoài Trung
Quốc là đủ mạnh (chỉ trừ Lào). Chẳng hạn, phe bảo thủ
đã ngăn chặn – mà ban đầu thành công – việc Việt Nam gia
nhập ASEAN, ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, và
gia nhập WTO. (45) Điều này đã đẩy Việt Nam vào một vị
thế nửa phụ thuộc Trung Quốc.
Bắt đầu từ giữa năm 2003, phe hiện đại đạt được một
chỗ đứng ít nhiều ngang bằng với phe bảo thủ. Bước đổi
thay này chủ yếu do tâm lý lo sợ và ý thức về những tác
động có tính đe dọa của việc Mỹ xâm lược Iraq. Nó xảy ra
khi những nhân vật bảo thủ nhận ra rằng họ đang sống không
phải trong một thế giới đa cực, mà là một thế giới đơn
cực với Mỹ ở vị trí quyền lực cao nhất. (46) Cán cân
thăng bằng quyền lực mới giữa phe bảo thủ và phe hiện
đại cho thấy, mặc dù Việt Nam vẫn nằm trong sân sau của
Trung Quốc, nhưng cơ hội cho Việt Nam nhảy ra khỏi cái sân ấy
là đáng kể.
Cũng vào thời gian đó, trong suốt 5 năm vừa qua, Trung Quốc
ngày càng trở nên hùng mạnh và quyết đoán hơn. Sự nổi lên
nhanh chóng và vững vàng của Trung Quốc, cộng với sự sa lầy
của Mỹ ở Iraq và Afghanistan, và cuộc khủng hoảng tài chính
kể từ năm 2008, đã đặt Bắc Kinh vào một vị thế mạnh hơn
nhiều so với bất kỳ thời điểm nào trước đây trong quá
khứ.
Trung Quốc vừa khẩn trương xây dựng quân đội vừa tỏ ra
sẵn sàng thể hiện mình hơn trên Biển Đông, nơi họ có
những tranh chấp lãnh thổ lớn với Việt Nam. Vào năm 2008,
hình ảnh qua vệ tinh thương mại xác nhận rằng Trung Quốc
đang xây một căn cứ hải quân lớn ở Sanya trên đảo Hải
Nam. Đồng thời, Trung Quốc mở rộng một sân bay trên đảo
Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và củng cố các cơ sở của
họ ở bãi đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa. Đầu
tháng 3/2009, tàu Trung Quốc gây hấn với tàu hải quân Mỹ
Impeccable tại tọa độ cách Hải Nam 75 dặm về phía nam và
cách bờ biển Việt Nam cũng khoảng ấy. Nối tiếp sau đó là
vụ va chạm ngày 11/6 giữa một tàu ngầm Trung Quốc với hệ
thống phát hiện tàu ngầm thuộc chiến hạm Mỹ John McCain.
Hồi tháng 5, Trung Quốc đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh
bắt cá kể từ ngày 16/5 đến ngày 1/8 tại khu vực vĩ tuyến
số 12 trên Biển Đông. Đây lại là cao điểm của mùa cá ở
Việt Nam. 8 tàu Trung Quốc hiện đại đã được cử tới khu
vực để thi hành lệnh cấm. Suốt cả năm, các phương tiện
truyền thông Việt Nam đưa tin về một số vụ việc trong đó
tàu Trung Quốc chặn bắt tàu cá Việt Nam. Tới tháng 8, khi hai
tàu cá Việt Nam tìm cách vào quần đảo Trường Sa để tránh
bão, họ đã bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ. Trong một
phản ứng chưa từng có tiền lệ, Việt Nam không chỉ đòi
thả cả hai tàu, mà còn gia tăng sự chống đối bằng lời đe
dọa sẽ hủy một cuộc họp bàn thảo về các vấn đề trên
biển, vốn đã được lên kế hoạch. Vào tháng 5, sau khi Việt
Nam đệ trình một kiến nghị chung với Malaysia và một yêu
sách độc lập đăng ký mở rộng khu vực thềm lục địa ra
ngoài giới hạn 200 hải lý được ấn định bởi Công ước
LHQ về Luật Biển, Trung Quốc đã nhanh chóng phản đối, nhưng
chưa có kháng nghị chính thức. Tuy thế, Trung Quốc đưa ra các
tư liệu làm bằng chứng cho yêu sách về biển của họ gắn
với một bản đồ, trong đó có "đường chín đoạn"
truyền thống của họ, đường này tạo thành một khu vực
hình chữ U bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông. Đó có vẻ
sẽ là lần đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức
công bố yêu sách của họ trong vấn đề này. (47)
Trên biên giới phía tây của Việt Nam, Trung Quốc đẩy mạnh
đầu tư và can thiệp vào Lào, đồng minh thân cận nhất của
Việt Nam. Chỉ trong vài năm, Trung Quốc đã qua mặt Thái Lan
để trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở đây.
Kết quả của dòng người nhập cư, tiền bạc và ảnh hưởng
từ Trung Quốc là việc vùng phía bắc Lào đã mang dấu ấn
Trung Quốc. (48) Các hoạt động của Trung Quốc trong vài năm qua
và đặc biệt là những sự kiện diễn ra năm 2009 đã khiến
Việt Nam không thể không nghĩ rằng dự định của Trung Quốc
bao gồm cả việc kiểm soát Biển Đông – nơi mà Việt Nam coi
như cửa trước – lẫn gây ảnh hưởng ở lục địa Đông
Dương, nơi Việt Nam coi như sân sau.
Cách Việt Nam phản ứng lại với các thách thức từ phía Trung
Quốc, một lần nữa, lại là hỗn hợp của những đường
lối ngoại giao khác nhau. Tuân theo quan điểm của phe hiện
đại, Việt Nam đã tăng tốc chương trình hiện đại hóa quân
đội, quyết định quốc tế hóa các vấn đề Biển Đông, và
đẩy mạnh ảnh hưởng riêng ở Lào và Campuchia. Vào các ngày
26-27/11/2009, Học viện Quan hệ Quốc tế Việt Nam và Hội Luật
sư Việt Nam tổ chức một hội thảo quốc tế về an ninh trên
Biển Đông, hội thảo đầu tiên về vấn đề này ở Việt
Nam, với sự tham dự của một số lượng lớn những học giả
hàng đầu về chủ đề của hội thảo, đến từ vài nước
khác nhau.
Đầu tháng 12, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sang Mỹ,
tới trụ sở của Hạm đội Thái Bình Dương. Tại Hawaii, ông
lên thăm một tàu ngầm, ở Washington, ông đề nghị bãi bỏ
lệnh cấm vận vũ khí có hiệu lực suốt từ hồi kết thúc
chiến tranh Việt Nam. (49) Khi sang thăm Pháp ngay sau chuyến đi
Mỹ, ông Thanh đề nghị Pháp giúp Việt Nam đào tạo nhân viên
quân y và bán trực thăng, máy bay vận tải cùng các thiết bị
quân sự hiện đại khác cho Việt Nam. (50) Cùng vào lúc đó,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Nga và ký hợp đồng mua 6
tàu ngầm Kiloclass (với giá khoảng 1,8 tỷ USD), 12 máy bay phản
lực chiến đấu Sukhoi Su-30MK2 (600 triệu USD), và các trang
thiết bị quân sự khác. Thỏa thuận đã được đàm phán từ
nhiều năm trước, nhưng việc ký kết hợp đồng vào thời
điểm đang có khủng hoảng tài chính đã đánh dấu quyết tâm
hiện đại hóa lực lượng quân đội của Việt Nam. Đổi lại
việc Nga chấp thuận bán hàng theo phương thức barter (hàng
đổi hàng) và thanh toán dần, ông Dũng mời chào Matxcơva hợp
tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam.
(51)
Khi Thủ tướng đang ở Nga còn Bộ trưởng Quốc phòng thì sang
thăm Mỹ và Pháp, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu có
mặt tại Hàn Quốc để trao đổi về hợp tác quân sự và mua
bán vũ khí, và Tổng Bí thư ĐCS Nông Đức Mạnh đi thăm
Campuchia. Trong chuyến thăm của ông Mạnh, hai nước đã ký một
hiệp ước thực hiện tự do hóa hàng hải trong khu vực sông
Mekong. (52) Không đầy hai tuần sau, một hội nghị xúc tiến
đầu tư do chính phủ Việt Nam và Campuchia đồng tổ chức đã
diễn ra tại TP HCM với sự có mặt của Thủ tướng cả hai
nước. Tại hội nghị, các doanh nghiệp Việt Nam cam kết đầu
tư tới 6 tỷ USD trong những năm tới. (53) Nếu công việc tiến
triển, Việt Nam sẽ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn
thứ hai ở Campuchia, chỉ sau Trung Quốc. Bốn tháng trước đó,
vào ngày 31/8, một hội nghị tương tự nhằm xúc tiến đầu
tư của Việt Nam vào Lào cũng đã được tổ chức tại TP HCM.
Theo một quan chức Lào tham gia hội nghị, Việt Nam đứng đầu
trong 46 quốc gia đầu tư vào Lào, với tổng khối lượng đầu
tư là 2,08 tỷ USD. (54)
Còn theo quan điểm của phe bảo thủ, Việt Nam đã tiếp tục
duy trì những mối liên hệ, trao đổi dày đặc với Trung Quốc
và cố gắng thắt chặt giao kèo trên cơ sở có một nền kinh
tế chung (Mỹ) và ý thức hệ chung (cộng sản). Như Tướng Lê
Văn Dũng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân
Việt Nam, người đã sang thăm Trung Quốc hai tuần vào cuối
tháng 10, phát biểu trong một cuộc trả lời phỏng vấn tờ
Tuổi Trẻ vào ngày 22/12: "Vấn đề ta với Trung Quốc trên
biển Đông, chúng ta đang tìm mọi cách giải quyết và tới
đây chúng ta sẽ cùng với bạn bàn bạc, đàm phán, phân định
biên giới trên biển. Như vậy thì tình hình sẽ ổn định
dần và chúng ta vẫn tăng cường quan hệ với Trung Quốc để
chống lại những âm mưu của kẻ thù chung". (55)
<h2>Kết luận</h2>
Nền chính trị của nước Việt Nam thời hậu Chiến tranh Lạnh
là một trò chơi giữa bốn đối thủ. Phe hiện đại nổi lên
từ sau cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự phát
triển của toàn cầu hóa, thập niên 1980. Nhưng tầm ảnh
hưởng lớn của Trung Quốc và sự gần gũi tương cận với
Trung Quốc đã là một yếu tố chủ chốt hỗ trợ cho các nhân
vật bảo thủ ở Việt Nam. Sự đồng tồn tại cả chủ nghĩa
cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản đã tạo ra môi trường
thuận lợi cho phe trục lợi. Hai thập niên qua, những kẻ trục
lợi đã nắm giữ phần lớn các đỉnh cao chỉ huy của nền
kinh tế Việt Nam. Trong chính trị đối nội, một liên minh
ngấm ngầm giữa phe bảo thủ và phe trục lợi đã kìm giữ
cải cách ở rất xa, chỉ vừa đủ để gặp phải sự chống
đối mãnh liệt từ phe hiện đại. Trong đối ngoại, sự tự
thể hiện quá mạnh của Trung Quốc đã làm giảm hiệu quả
của thái độ tôn kính của một Việt Nam chiều theo Trung Quốc
– đường lối ngoại giao mà các nhân vật bảo thủ ưa chọn.
Việt Nam đã phản ứng bằng cách đẩy mạnh thế cân bằng
đối nội và đối ngoại, đây là một đường lối được phe
hiện đại cổ súy.
Năm 2010 này, hệ thống chính trị Việt Nam sẽ tập trung vào
việc ổn định nền kinh tế, đảm bảo cho các sự kiện của
ASEAN diễn ra an toàn, và chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần
thứ 11, theo kế hoạch sẽ được tổ chức vào tháng 1/2011.
Trong hoàn cảnh này và để ngăn chặn một sự sụp đổ lớn,
Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục con đường phát triển
được dẫn dắt bởi vốn (tư bản) cho đến khi nào bong bóng
lại vỡ. Nhưng thay đổi lớn trong nền chính trị Việt Nam sẽ
chỉ được kích hoạt bởi một sự sụp đổ như thế. Chính
sách kinh tế, đối nội và đối ngoại của Việt Nam sẽ tiếp
tục là hỗn hợp pha trộn các yếu tố được ba phe bảo thủ,
trục lợi và hiện đại cổ súy, nhưng cả ba lĩnh vực này
chắc chắn là sẽ tiến triển theo những con đường khác nhau.
Chính sách kinh tế sẽ bao hàm một vài nỗ lực tái cơ cấu
nhưng nhiều khả năng sẽ bị phe trục lợi thống trị. Trong
chính trị đối nội, chính quyền hẳn sẽ thắt chặt kiểm
soát bất chấp những lời kêu gọi ngày một lớn hơn từ
giới tinh hoa chính thống, đòi một sự thay đổi quyết liệt.
Ứng xử của Việt Nam trên trường quốc tế thì sẽ ít quỵ
lụy trước Trung Quốc hơn, nhưng các nỗ lực nhằm tái thiết
quan hệ chiến lược với Mỹ nhiều khả năng sẽ bị phá ngang
bởi sự bất đồng giữa các cách tiếp cận khác nhau của
chính phủ đối với vấn đề nhân quyền.
Người dịch: Đan Thanh
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
* Cùng tác giả: <a
href="http://basam.info/d%E1%BA%A1i-chi%E1%BA%BFn-l%C6%B0%E1%BB%A3c-hai-h%C6%B0%E1%BB%9Bng/">Đại
chiến lược hai hướng</a>.
_____________________________________
<h2>Chú thích:</h2>
(23) Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ Tổng cục
Thống kê Việt Nam.
(24) Pivot Capital Management, "China's Investment Boom: The Great Leap
into the Unknown", 21/8/2009, p. 2.
(25) Xem thêm Cariyle A. Thayer, "Vietnam and the Challenge of Political
Civil Society", Contemporary Southeast Asia 31, no. 1 (2009): 1-27.
(26) Xem thêm Cariyle A. Thayer, "Political Legitimacy of Vietnam's
One-Party State: Challenges and Responses", Journal of Current Southeast
Asian Affairs, no. 4 (2009): 47-70.
(27) Xem bài của Nguyễn Anh Tuấn "From VietNet to VietNamNet: Ten
Years of Internet Media in Vietnam", Discussion Paper #43, Shorenstein
Center on the Press, Politics, and Public Policy, Harvard University, 2007
<http://www.hks.harvard.edu/presspol/publications/papers/discussion_papers/
d43_nguyen.pdf>.
(28) "Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp ý về dự án bô xít Tây
Nguyên", VietNamNet, 14/1/2009 <http://www.tuanvietnam.net/2009-01 –
14-dai-tuong-vo-nguyen-giap-gop-y-vedu-an-bo-xit-tay-nguyen>; "Vietnam's
War Hero Giap Urges to Halt Bauxite Mining Plans", Agence France Presse,
15/1/2009. Bản photo bức thư của ông Giáp ở trang Trần Hữu
Dũng: <http://www.viet-studies.info/kinhte/Thu_VNGiap_NTDung. pdf>.
(29) "Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc" (2/12/2001), Vietnam
News Agency, 4/12/2001.
(30) Địa bàn dự án bauxite ở hai tỉnh Đak Nông và Lâm Đồng
ở khu vực Tây Nguyên, nơi các nhà chiến lược quân sự gọi
là "nóc nhà Đông Dương" và nơi có tầm quan trọng chiến
lược được thể hiện trong câu nói "ai kiểm soát được
Tây Nguyên sẽ kiểm soát được miền Nam Việt Nam". Sông
Đồng Nai và sông Bé chảy qua khu vực đô thị và công nghiệp
lớn nhất Việt Nam cũng bắt nguồn từ hai tỉnh này.
(31) Quốc Phương, "Hội nghị Trung ương 8 mang tính tình
thế", BBC Vietnamese, 2/10/2008.
(32) Seth Mydans, "War Hero in Vietnam Forces Government to Listen", New
York Times, 29/6/2009, p. A6.
(33) Thayer, "Political Legitimacy of Vietnam's One-Party State", p.
51. Xem thêm chi tiết về những tranh luận xung quanh dự án
bauxite và các phong trào phản đối khác trong năm 2009.
(34) Xem Thayer, "Vietnam and the Challenge of Political Civil Society",
và Thayer, "Political Legitimacy of Vietnam'sOne-Party State".
(35) "Vietnam Activists Could Face Death Penalty", Deutsche
Presse-Agentur, 11/12/2009.
(36) "Berlin Wall Post Costs Vietnam Blogger Job", Agence France Presse,
27/8/2009.
(37) "Người Buôn Gió kể chuyện", BBC Vietnamese, 9/9/2009
<http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/09/090909_blogger_iv.shtml>.
(38) "Vietnam Police Release Another Detained Blogger", Reuters,
12/9/2009. Hồi ký những ngày bị giam của Quỳnh được công
bố trên blog Bạn của Mẹ Nấm <http://menamtg.multiply.com/>.
(39) Bài báo được đăng tải trên Internet tại cổng điện tử
của tỉnh Quảng Ninh nhưng sau đó bị gỡ bỏ. Bản photocopy ở
đây <http://www.viet-studies.info/kinhte/DeCuongTuyenTmyen.pdf>.
(40) Mai Hương, "Ra mắt chương trình 'Quy luật tất yếu",
Sài Gòn Giải Phóng, 4/11/2009
<http://www.sggp.org.vn/chinhtri/hocthuyetmaclenin/2009/11 /207493/>.
(41) "Loạt bài: Việt Nam và mô hình phát triển trong thập kỷ
mới", TuanVietNam, 11/1/2010 <http://www.tuanvietnam.net/2009-12-31
-loat-bai-viet-nam-va-mo-hinh-phat-trien-trong-thapki-moi>.
(42) Nguyễn Trung, "Xây dựng chế độ chính trị đồng nghĩa
với Tổ quốc", TuanVietNam, 31/12/2009
<http://www.tuanvietnam.net/2009-12-27-xay-che-do-chinh-tri-dong-nghia-voi-toquoc->.
(43) Alexander L. Vuving, "Grand Strategic Fit and Power Shift: Explaining
Turning Points in China-Vietnam Relations", trong Living with China:
Regional States and China
through Crises and Turning Points, biên tập Shiping Tang, Mingjiang Li,
và Amitav Acharya (New York: Palgrave Macmillan, 2009), pp. 229^5.
(44) Alexander L. Vuving, "Strategy and Evolution of Vietnam's China
Policy: A Changing Mixture of Pathways", Asian Survey 46, no. 6 (November
2006): 812,
816-17.
(45) Nguyễn Trung, "Người tài bị đố kỵ và không được
trọng dụng", VietNamNet, 9/2/2006
<http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/02/539842/>; "Vào WTO:
Việt Nam bỏ lỡ một nước cờ" (phỏng vấn cựu Thủ
tướng Võ Văn Kiệt), VietNamNet, 4/1/2006
<http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/doingoai/2006/01/528944/>.
(46) Vuving, "Strategy and Evolution of Vietnam's China Policy", pp.
817-18.
(47) Trích từ Carlyle A. Thayer, "Recent Developments in the South China
Sea: Implications for Peace, Stability and Cooperation in the Region", tham
luận trình bày tại hội thảo "Biển Đông: Hợp tác vì an
ninh và phát triển khu vực", Hà Nội, 27-28/11/2009, pp. 5-11.
(48) Denis Gray, "Laos Fears China's Footprint", Associated Press,
6/4/2008; Martin Stuart-Fox, "Laos: The Chinese Connection", trong
Southeast Asian Affairs 2009, biên tập Daljit Singh (Singapore; Institute
of Southeast Asian Studies, 2009), pp. 141-69.
(49) "Hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ phát triển tích cực"
(phỏng vấn Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh), Vietnam News
Agency, 17/12/2009.
(50) "Vietnam Seeks Military Deals with France; State Media", Agence
France-Presse, 18/12/2009.
(51) "Việt Nam ký hợp đồng mua tàu ngầm của Nga", BBC
Vietnamese, 16/12/2009; Huỳnh Phan, "Điện hạt nhân và ODA trong
quan hệ đối tác chiến lược". Sài Gòn Tiếp Thị, 5/3/2010
<http;//www.sgtt.com.vn/Detail3.aspx?ColumnId=3&newsid=63735&fld=HTMG/2010/0304/63735>.
(52) "Việt Nam-Hàn Quốc mở rộng hợp tác quốc phòng",
Vietnam News Agency, 17/12/2009.
(53) "Việt Nam, Campuchia ký thỏa thuận tới 6 tỷ USD", Vietnam
News Agency, 26/12/2009.
(54) Trung Hiếu, "Nhiều cơ hội đầu tư vào Lào", Pháp Luật
Thành Phố Hồ Chí Minh, 31/8/2009.
(55) "Tìm mọi cách giải quyết vấn đề Biển Đông" (phỏng
vấn Tướng Lê Văn Dũng), Tuổi Trẻ, 22/12/2009
<http;//www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=354571& ChannelID=3>.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7811), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét