tế học tại đại học Trinity, Cambridge, và đại Harvard. Bài
tham luận dưới đây là diễn văn chính trong buổi hội thảo
tại New Delhi về "Xây dựng Phong trào Dân chủ Toàn Thế giới"
do Quỹ Yểm trợ Dân chủ Quốc gia, Liên minh Kỹ nghệ Ấn
Độ, và Trung tâm Nghiên cứu Chính sách (New Delhi) đồng tổ
chức. Tham luận này dựa trên cuốn sách của tác giả mang tựa
đề "Phát triển chính là Tự do," do nhà Alfred Knopf ấn
hành.</em>
Vào mùa hè năm 1997, một nhà báo hàng đầu của Nhật Bản có
hỏi ý kiến của tôi xem điều gì đáng được coi là quan
trọng bậc nhất đã xảy ra trong thế kỷ 20. Tôi cảm thấy
đây quả là một câu hỏi bất thường khiến cho ta phải suy
nghĩ, vì trong thế kỷ qua có biết bao điều trọng đại đã
xảy ra. Các đế quốc ở Âu châu, nhất là đế quốc Anh và
Pháp từng một thời thống trị thế kỷ mười chín, nay đã
chấm dứt. Chúng ta cũng đã chứng kiến hai cuộc đại chiến.
Ta đã chứng kiến sự nổi dậy và suy tàn của chủ nghĩa
Phát-xít và Quốc xã. Thế kỷ này cũng chứng kiến sự nổi
dậy của chủ nghĩa Cộng sản và sự suy tàn của nó (như ở
tại khối Xô-viết) hay sự biến chất từ căn bản của chủ
nghĩa này (như ở Trung Hoa). Ta cũng thấy một sự thay đổi cán
cân kinh tế với một đầu nặng ở Tây phương sang một sự
cân bằng kinh tế với sức nặng tương đương ở Nhật Bản
và các nước thuộc Đông Á và Đông Nam Á. Mặc dù vùng này
cũng đang trải qua những vấn nạn kinh tế và tài chính, nhưng
những vấn nạn này cũng không làm mất được thế cân bằng
kinh tế thế giới đã xảy ra trong nhiều thập niên vừa qua
(trong trường hợp Nhật Bản, hầu như gần một thế kỷ).
Một trăm năm qua, quả thật, không thiếu gì những biến cố
quan trọng.
Tuy nhiên, trong số những sự phát triển lớn lao và khác nhau
xảy ra trong thế kỷ 20, sau rốt, tôi chẳng thấy khó khăn gì
khi chọn một sự phát triển ưu việt nhất trong thời đại
này: đó là sự phát triển của chế độ dân chủ. Nói thế
không có nghĩa là các sự kiện khác trong cùng thời không phải
là không quan trọng, nhưng tôi sẽ lập luận rằng trong một
tương lai không xa, khi người ta nhìn lại những gì đã xảy ra
trong thế kỷ này, họ sẽ phải nhìn nhận sự phát triển của
chế độ dân chủ – một chế độ chính trị được công
nhận là ưu việt – xứng đáng được xem là quan trọng nhất.
Ý tưởng về dân chủ phát xuất, dĩ nhiên, từ cổ Hy Lạp,
hơn hai ngàn năm trước. Những nỗ lực rời rạc nhằm dân
chủ hóa cũng được thử nghiệm tại nhiều nơi khác, gồm cả
ở Ấn Độ.[1] Nhưng thực ra chính là ở Hy Lạp mà tư tưởng
dân chủ mới được hình thành và nghiêm túc đưa vào thực
hành (dù chỉ trong một quy mô giới hạn), trước khi nền dân
chủ bị sụp đổ và thay thế bằng các chế độ chính trị
bất cân xứng và độc đoán hơn. Ngoài ra, không còn mô hình
chính trị nào khác.
Sau đó, chế độ dân chủ, như ta biết, đã phải mất một
thời gian lâu dài mới trỗi dậy. Sự xuất hiện tiệm tiến
và đắc thắng tối hậu của hệ thống chính quyền dân chủ
được củng cố qua nhiều thời đại, từ khi Đại Hiến
chương được ký kết năm 1215, tới cuộc cách mạng Mỹ và
Pháp trong thế kỷ mười tám, đến việc mở rộng quyền bầu
cử tại Âu châu và Mỹ châu trong thế kỷ mười chín. Tuy
nhiên, mãi đến thế kỷ hai mươi, tư tưởng dân chủ mới
trở thành một mô hình "bình thường" mà bất cứ nơi nào cũng
được hưởng – dù ở Âu châu, Mỹ châu, Á châu, hay Phi châu.
Cái ý tưởng dân chủ, như là một sự cam kết thực hiện
toàn cầu, quả là một ý tưởng khá mới, và là một sản
phẩm tinh túy của thế kỷ hai mươi. Những viên loạn tướng
và lãnh chúa dùng vũ lực để hạn chế quyền lực của Anh
hoàng qua bản Đại Hiến chương chỉ thấy nhu cầu này có tính
chất cá biệt tại nước Anh. Ngược lại, những người Mỹ
chiến đấu cho độc lập và các nhà cách mạng tại Pháp là
những người đã góp phần lớn lao vào sự hiểu biết về nhu
cầu thiết lập chế độ dân chủ như một hệ thống tổng
quát. Thế nhưng, trọng tâm của những đòi hỏi thiết thực
của họ cũng vẫn mang tính địa phương, bị giới hạn bởi
hai bờ của Đại Tây dương và được thiết lập trên nền
tảng đặc thù về kinh tế, xã hội và lịch sử chính trị
của vùng đất này.
Trong suốt thế kỷ mười chín, các lý thuyết gia về dân chủ
cảm thấy tự nhiên khi đặt vấn đề liệu nước này hay
nước kia có "trưởng thành để có chế độ dân chủ" hay
không? Suy nghĩ này chỉ mới thay đổi trong thế kỷ hai mươi,
khi các nhà học giả nhận ra rằng họ đã đặt sai vấn đề:
Thay vì xét xem một nước có thích hợp với chế độ dân chủ
hay không, ta cần xét xem nước đó khi áp dụng dân chủ có
trở nên "trưởng thành" hay không. Điều này quả thực là
một sự thay đổi tư duy lớn lao, mở rộng khả năng tiếp
cận của dân chủ tới hàng tỉ người trong những nền văn
hóa, lịch sử và mức độ giàu nghèo chênh lệch khác nhau.
Cũng chỉ trong thế kỷ này, rốt cuộc rồi thì người ta mới
chấp nhận "quyền bầu cử của mọi người trưởng thành" có
nghĩa là của tất cả mọi người, không phân biệt nam nữ.
Vào tháng Giêng năm nay, tôi có dịp gặp bà Ruth Dreyfus, tổng
thống nước Thụy sĩ, và là một phụ nữ nổi tiếng trên
thế giới; dịp này khiến cho tôi nhớ lại rằng phụ nữ
Thụy sĩ mới chỉ được quyền bầu cử khoảng một phần tư
thế kỷ trước đây.[2]
Tôi công nhận là có nhiều ý kiến chống lại sự khẳng
định tính toàn cầu của dân chủ. Những sự chống đối này
có nhiều thể loại và đến từ nhiều hướng khác nhau. Thật
ra, phần trình bày những luận điệu chống đối này là một
phần của tiểu luận này, qua đó tôi phải xem xét giá trị
toàn cầu của dân chủ và những tranh biện chung quanh lập
luận này. Trước khi bắt đầu cuộc thảo luận, tuy nhiên, ta
cần phải hiểu rõ xu thế [thời đại] đã đưa dân chủ trở
thành một niềm tin đang chiếm ưu thế trong thế giới hiện
đại.
Trong bất kỳ thời đại và hoàn cảnh xã hội nào, bao giờ
cũng có những niềm tin phổ quát được mọi người tôn trọng
như một quy luật chung, tương tự như sự bố trí "mặc định"
trong một lập trình điện toán. Những niềm tin này được xem
là đúng cho đến khi sự khẳng định này bị chứng minh
ngược lại. Mặc dù dân chủ vẫn chưa được áp dụng toàn
cầu, cũng như chưa được chấp nhận đồng loạt, trong bối
cảnh chung của thế giới, chính quyền theo dân chủ đã đạt
được vị thế "mặc định." Trái banh hiện đang nằm trên sân
của những kẻ muốn bôi bác dân chủ đưa ra những lập luận
chống lại sự mặc định này.
Sự thay đổi có tính chất lịch sử này xảy ra cách nay chưa
lâu, khi những người cổ võ cho dân chủ ở Á và Phi châu còn
là một thiểu số bị dồn vào chân tường. Dù hiện nay ta đã
có đủ lý lẽ để phản bác những kẻ, dù ngấm ngầm hay
công khai, đã từ khước nhu cầu dân chủ, ta cũng phải ghi
nhận một cách rõ ràng xem cái dư luận chung đã chuyển hướng
như thế nào so với thế kỷ trước. Ta không cần cứ mỗi
lần lại phải chứng minh xem nước này hay nước kia (Nam Phi,
Cambodia, hay Chile) có "thích hợp" cho dân chủ hay không nữa (câu
hỏi này đã từng là câu hỏi then chốt trong các cuộc thảo
luận về dân chủ trong thế kỷ 19). Sự công nhận dân chủ
như một hệ thống thích hợp trên toàn cầu, nằm trong chiều
hướng đưa đến sự công nhận giá trị toàn cầu của hệ
thống dân chủ, chính là một tư duy cách mạng trọng yếu, và
là một trong những đóng góp chính trong thế kỷ 20. Chúng ta
sẽ xem xét vấn đề dân chủ là một giá trị toàn cầu trong
bối cảnh này.
<strong>Kinh nghiệm của Ấn Độ</strong>
Dân chủ đã hoạt động tốt như thế nào? Trong khi chẳng có
ai đặt vấn đề về vai trò của dân chủ tại các nước như
Mỹ, Anh hay Pháp, đây vẫn là một vấn đề gây tranh cãi tại
những nước nghèo hơn trên thế giới. Đây không phải là lúc
đưa ra một sự khảo sát chi tiết các dữ kiện lịch sử,
nhưng tôi cũng có thể trả lời rằng chế độ dân chủ đã
hoạt động khá tốt.
Ấn Độ, dĩ nhiên, đã từng là diễn đàn của cuộc tranh
luận này. Khi không trả lại độc lập cho Ấn Độ, người Anh
đã bày tỏ sự quan ngại về khả năng tự cai trị của
người Ấn. Nước Ấn thực sự đã bị rối loạn chính trị
trong năm 1947, năm được trao trả độc lập. Ấn Độ lúc đó
có một chính phủ chưa có kinh nghiệm, người dân Ấn còn chưa
nguôi ngoai về việc đất nước bị chia hai, sự liên kết
giữa các đảng phái còn chưa rõ ràng, cộng thêm với các
cuộc bạo động tràn lan trong các cộng đồng sắc tộc và
bất ổn xã hội. Cho nên, lúc đó thật khó mà có được niềm
tin vào tương lai của một nước Ấn Độ thống nhất và dân
chủ.
Thế nhưng, nửa thế kỷ sau, ta thấy nền dân chủ đó, dù có
nhiều trầy trật, đã hoạt động tốt một cách đáng nể.
Những khác biệt chính trị phần lớn được giải quyết trong
khuôn khổ của hiến pháp, các chính phủ lên rồi xuống theo
quy luật của bầu cử và nghị viện. Dù sự kết hợp những
khác biệt chính trị tại Ấn Độ có lúc vụng về, thiếu
trang nhã, và có lúc tưởng như bất khả, nhưng Ấn Độ đã
tồn tại và hoạt động như một đơn vị chính trị trong hệ
thống dân chủ. Nói cho đúng, Ấn Độ không bị phân hóa là
nhờ có bộ máy dân chủ hoạt động hữu hiệu.
Ấn Độ cũng đã vượt qua được những thử thách khổng lồ
khi phải giải quyết những dị biệt giữa các ngôn ngữ chính
và các sắc độ tôn giáo khác nhau.[3] Sự khác biệt giữa tôn
giáo và cộng đồng khiến cho xã hội rất dễ bị các chính
trị gia giáo phái lợi dụng, và họ đã lợi dụng sự phân
hóa này trong nhiều trường hợp, gồm nhiều vụ mới xảy ra
gần đây, và khiến cho cả nước phải cảnh báo. Tuy nhiên,
chính sự cảnh báo trước những sự bạo động mang tính chất
tôn giáo và sự lên án các hành vi đó từ mọi thành phần
trong cả nước đã là một sự bảo đảm chính yếu của dân
chủ chống lại các sự lợi dụng và tranh chấp hẹp hòi giữa
những bè phái và phe nhóm tôn giáo. Điều này quả là hệ
trọng cho sự tồn tại và thịnh vượng của Ấn Độ, vì đây
là một nước có nhiều sự khác biệt sâu sắc, không những
là quê hương của đa số người Hindu mà còn là quê hương
của một phần ba dân theo Hồi giáo, của hàng triệu người
theo Phật giáo và Thiên Chúa giáo, và của những giáo phái khác
như Sikhs, Parsees và Jains.
<strong>Dân chủ và phát triển kinh tế</strong>
Ta vẫn thường nghe lời tuyên bố là các hệ thống chính trị
phi dân chủ khá hơn các hệ thống khác trong việc đem lại
phát triển kinh tế. Sự tin tưởng này thường được gọi là
"Giả thuyết họ Lý," vì được Lý Quang Diệu, nhà lãnh đạo
và cựu thủ tướng của Singapore xiển dương. Lý Quang Diệu
đã hoàn toàn đúng khi dẫn chứng một vài nước có kỷ luật
(như Nam Hàn, nước Singapore của ông ta, và nước Tàu hậu cải
cách) đã có mức độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước
kém độc tài (gồm cả Ấn Độ, Jamica, và Costa Rica). Giả
thuyết họ Lý, tuy nhiên, giả thuyết này chỉ được đặt căn
bản trên một vài sự quan sát rời rạc, rút ra từ những
thông tin được tuyển lựa và hạn chế, thay vì dựa trên bất
kỳ một cuộc khảo sát dùng thống kê phân tích các dữ kiện
về nhiều phương diện và hiện đang có sẵn. Ta không thể rút
ra được một quan hệ tổng quát như Giả thuyết họ Lý đề
ra dựa trên căn bản của những chứng cớ được lựa lọc ra
để chứng minh. Tỷ dụ, ta không thể lấy sự tăng trưởng
kinh tế cao của Singapore hay của Tàu làm "bằng chứng dứt
khoát" cho rằng chế độ độc tài phát triển kinh tế giỏi
hơn các chế độ khác, cũng như không thể rút ra một kết
luận ngược lại từ sự kiện là Botswana, một nước có thành
tích cao nhất về phát triển kinh tế tại Phi châu, thực ra
phải nói đó là một nước có thành tích tốt nhất về phát
triển kinh tế trên toàn thế giới, đã là một ốc đảo của
dân chủ trên lục địa châu Phi cả hàng mấy thập niên. Ta
cần có nhiều nghiên cứu thực nghiệm có hệ thống hơn nữa
để phân loại các kiểu lý luận ủng hộ hay chống đối Giả
thuyết họ Lý.
Thực ra, chẳng có một chứng cớ tổng quát và đáng tin nào
chứng tỏ được rằng sự cai trị độc tài và đàn áp các
quyền chính trị và dân sự của người dân lại có lợi cho
sự phát triển kinh tế. Nói cho đúng hơn, nếu dựa trên sự
nghiên cứu thống kê tổng quát, thì không thể suy luận như
vậy được. Những nghiên cứu thực nghiệm có hệ thống (như
của Robert Barro hay của Adam Przeworski) không đưa ra được
chứng cớ nào cho giả thuyết là có sự mâu thuẫn giữa quyền
chính trị và hoạt động kinh tế.[4] Mối quan hệ trực tiếp
dường như còn tùy vào nhiều hoàn cảnh khác nữa, và nếu có
một vài sự khảo sát bằng thống kê nào cho thấy mối tương
quan ngược chiều và yếu giữa dân chủ và kinh tế, thì cũng
có những khảo sát khác cho thấy có mối tương quan thuận và
mạnh mẽ [giữa hai biến số này]. Nếu tất cả những khảo
sát mang tính chất so sánh được xem xét cùng lúc, thì giả
thuyết cho rằng không có một mối liên hệ rõ rệt nào giữa
phát triển kinh tế và dân chủ theo cả hai chiều thuận và
nghịch, có lẽ hợp lý hơn cả. Vì dân chủ và tự do chính
trị đều là các điều quan trọng, cho nên không phải vì có
liên hệ hay không tới phát triển kinh tế mà sự quan trọng
bị ảnh hưởng bởi lập luận kể trên.[5] Câu hỏi mà chúng
ta đang xem xét cũng liên quan đến một vấn đề cơ bản về
phương pháp nghiên cứu kinh tế. Ta phải, không những quan sát
những mối liên hệ theo xác suất và thống kê, mà còn phải
xem xét tỉ mỉ tiến trình nhân quả nằm trong sự tăng trưởng
kinh tế và phát triển. Giờ đây ta đã hiểu khá rõ những
chính sách kinh tế và hoàn cảnh đưa tới sự thành công về
phương diện kinh tế tại những nước Đông Á. Dù những
nghiên cứu thực nghiệm có khác nhau về trọng tâm, nhưng hiện
nay đã có được một sự đồng thuận rộng rãi về một danh
mục gồm một số các "chính sách có lợi" cho sự phát triển
kinh tế, gồm có các điểm sau: cởi mở cho sự cạnh tranh, sử
dụng thị trường quốc tế, các chính sách khuyến khích xuất,
nhập cảng, nâng cao giáo dục, cải cách ruộng đất, và các
cơ hội khác mở rộng sự tham gia của người dân vào tiến
trình phát triển kinh tế. Không có lý do gì để cho rằng
những chính sách như vậy lại mâu thuẫn với các chính sách
[của chế độ] dân chủ và phải dùng tới sức mạnh của
độc tài như đã từng xảy ra ở Nam Hàn, Singapore, hay Trung Hoa.
Thực ra, có vô vàn chứng cớ chứng minh rằng điều kiện tạo
ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh là một không khí kinh tế thân
thiện hơn chứ không phải một chế độ chính trị hà khắc
hơn.
Để khảo sát trọn vẹn, ta phải vượt ra ngoài khuôn khổ
chật hẹp của sự tăng trưởng kinh tế và nghiên cứu tỉ mỉ
những đòi hỏi lớn hơn của sự phát triển kinh tế, gồm cả
nhu cầu an ninh kinh tế và xã hội. Trong phạm vi đó, ta phải
một mặt xem xét mối quan hệ giữa quyền chính trị và dân
quyền, và mặt khác xem xét các chính sách ngăn ngừa không cho
những đại họa kinh tế xảy ra. Quyền chính trị và quyền
dân sự cho người dân cơ hội để lên tiếng mạnh mẽ về
những nhu cầu chung và đòi hỏi các biện pháp thích đáng của
chính quyền. Phản ứng của chính quyền [có nhanh nhạy] trước
những đau khổ lớn lao của người dân thường tùy vào áp
lực người dân tạo ra có đủ mạnh hay không. Việc thực thi
các quyền chính trị của người dân (bầu cử, phê bình, biểu
tình, vân vân) có thể tạo nên những phần thưởng hay trừng
phạt chính trị thật sự cho những viên chức đang vận hành
bộ máy chính quyền.
Tôi cũng đã có lần trình bày một sự kiện đặc biệt, đó
là trong lịch sử của những nạn đói khủng khiếp trên thế
giới, chưa có một nạn đói đáng kể nào xảy ra trong một
nước độc lập, dân chủ, và có một hệ thống báo chí
tương đối tự do.[6] Đây là một quy luật không có ngoại
lệ, dù ta có tìm bất cứ chỗ nào trên thế giới: các nạn
đói xảy ra gần đây tại Ethiopia, Somalia, hay tại các chế
độ độc tài khác; những nạn đói xảy ra tại Liên Xô trong
thập niên 1930; tại Trung Hoa năm 1958-1961 xảy ra sau Kế hoạch
Đại Nhảy Vọt; hoặc xa hơn nữa là các nạn đói xảy ra ở
Ái Nhĩ Lan hoặc Ấn Độ dưới chế độ thực dân. Trung Hoa,
dù trên nhiều phương diện, phát triển kinh tế khá hơn Ấn
Độ, nhưng (khác với Ấn Độ) là vẫn có nạn đói, mà phải
nói đó là nạn đói lớn nhất được ghi lại trong lịch sử
thế giới: gần 30 triệu người chết trong nạn đói 1958-1961,
nhưng các chính sách sai lầm của chính quyền vẫn không được
sửa đổi trong suốt thời gian 3 năm đó. Những chính sách sai
lầm đó không bị chỉ trích gì cả bởi vì không có một
đảng đối lập nào trong quốc hội, không có tự do báo chí,
và các cuộc bầu cử đa đảng. Chính ra, chỉ vì không có sự
phê bình và thách thức này mà chính quyền mới có thể tiếp
tục thi hành những chính sách cực kỳ sai lầm đã đưa đến
cái chết của hàng triệu người mỗi năm. Đó cũng là tình
trạng tương tự đang xảy ra tại Bắc Hàn và Sudan nơi diễn ra
hai nạn đói trong lịch sử đương đại của thế giới.
Người ta thường liên kết nạn đói với những thiên tai, và
các nhà bình luận cũng thường chấp nhận sự đơn giản hóa
này để giải thích nguyên do của những nạn đói: những vụ
lụt lội xảy ra tại Trung Hoa trong kế hoạch Đại Nhảy Vọt,
hạn hán ở Ethiopia, hay thất mùa tại Bắc Hàn. Tuy nhiên, có
rất nhiều quốc gia bị những thiên tai tương tự, hay trầm
trọng hơn nữa, mà vẫn không bị đói, chỉ vì có sự đáp
ứng kịp thời của chính quyền làm giảm đi nguy cơ gây ra
nạn đói. Bởi vì nạn nhân chính của nạn đói là những
người nghèo khổ, cho nên, chính quyền có thể ngăn ngừa nạn
chết đói bằng chính sách tài trợ thu nhập (qua chương trình
thuê mướn nhân công, chẳng hạn), để giúp họ có tiền mua
thực phẩm. Ngay cả những nước dân chủ nghèo đói nhất và
đã từng phải trải qua những trận hạn hán hay lụt lội
khủng khiếp, hay những thiên tai khác (như Ấn Độ năm 1973,
Zimbabwe và Botswana đầu thập niên 1980) nhưng vẫn có khả năng
nuôi sống dân của họ mà không phải kinh qua nạn đói.
Nạn đói rất dễ dàng ngăn ngừa, nếu ta có một nỗ lực
nghiêm túc để thực hiện, và một chính quyền dân chủ – khi
phải đứng trước những cuộc bầu cử và chỉ trích từ các
đảng đối lập và báo chí độc lập – không thể không
thực hiện nỗ lực nghiêm túc đó. Ta cũng chẳng ngạc nhiên
gì khi thấy Ấn Độ tiếp tục có những nạn đói xảy ra trong
suốt thời bị người Anh cai trị cho đến khi giành lại
được độc lập (nạn đói cuối cùng, mà tôi được chứng
kiến khi còn là một đứa trẻ, xảy ra vào năm 1943, bốn năm
trước khi Ấn Độ được độc lập), những nạn đói này
bỗng dưng biến mất khi một nền chính trị đa đảng và báo
chí tự do được thiết lập.
Tôi đã trình bày vấn đề này trong các tác phẩm khác, nhất
là trong cuốn sách viết chung với Jean Dr'eze, nên tôi sẽ không
bàn thêm ở đây.[7] Thực ra, vấn đề nạn đói chỉ là một
thí dụ cho thấy phạm vi hoạt động của dân chủ [liên quan
đến dân sinh], và là trường hợp dễ phân tích nhất. Vai trò
của các quyền chính trị và dân quyền còn có những ảnh
hưởng tích cực trong việc ngăn ngừa những tai họa kinh tế
và xã hội, nói chung, chứ không chỉ trong vấn đề nạn đói.
Khi mọi sự diễn tiến tốt đẹp, thì ta thường không để ý
tới vai trò then chốt này của dân chủ. Chỉ khi nào sự việc
bị trục trặc, vì lý do này hay lý do khác, thì phần thưởng
chính trị[8] do hệ thống dân chủ mang lại mới có giá trị
thực tế.
Ở đây, tôi tin là có một bài học quan trọng. Có nhiều
chuyên viên kinh tế đề nghị việc sử dụng những phần
thưởng kinh tế (do hệ thống thị trường cung cấp) mà quên
đi những phần thưởng chính trị (được bảo đảm bởi hệ
thống dân chủ). Trong số những vấn đề xảy ra gần đây
tại Đông và Đông Nam Á là những hình phạt dành cho sự cai
trị phi dân chủ về hai phương diện nổi bật. Thứ nhất là
sự lan tràn của cuộc khủng hoảng tài chánh tại một số
nước (gồm có Nam Hàn, Thái Lan, và Nam Dương) có liên hệ mật
thiết với sự thiếu minh bạch trong kinh doanh, đặc biệt là
thiếu sự tham gia của công chúng trong tiến trình duyệt xét
sự kết hợp những định chế tài chánh. Sự vắng mặt của
một diễn đàn dân chủ hữu hiệu là trọng tâm của sự thất
bại này. Thứ hai, một khi cuộc khủng hoảng tài chánh dẫn
đến tình trạng suy trầm kinh tế chung, sức bảo vệ của dân
chủ – giống như sức mạnh ngăn chặn nạn đói tại các
nước dân chủ – hầu như không hiện hữu tại một nước.
Như tại Nam Dương, những nạn nhân mới bị mất hết tài sản
không có được cơ hội để trình bày trường hợp của họ
trước công luận.
Một sự sụt giảm tổng sản lượng quốc gia, thí dụ là 10
phần trăm, có thể sẽ không bị coi là nghiêm trọng cho lắm,
nếu sau đó nền kinh tế lại gia tăng với mức độ 5 hoặc 10
phần trăm mỗi năm trong vòng một thập niên qua, nhưng sự suy
giảm như vậy có thể làm cho nhiều cuộc sống bị lao đao và
tạo ra sự khốn khổ cho hàng triệu người nếu gánh nặng
của sự suy giảm này không được trải rộng ra mà thay vào
đó lại chồng chất lên những người bị thất nghiệp hay
những người bị thừa ra vì thiếu việc làm – những người
mà sức chịu đựng khó khăn kinh tế kém nhất. Người dân Nam
Dương có thể sẽ không cảm thấy nhược điểm này và sẽ
không thấy cần có dân chủ nếu mọi sự cứ tiếp tục tiến
triển, nhưng nếu sự khủng hoảng kinh tế vẫn không được
chia sẻ đồng đều với mọi thành phần và vẫn tiếp tục
xảy ra, thì nhược điểm này vẫn tồn tại dù tiếng nói của
người dân có bị uất nghẹn đi chăng nữa. Vai trò bảo vệ
của dân chủ đã bị thiếu trầm trọng khi mà người dân cần
nó nhất.
<strong>Chức năng của dân chủ</strong>
Từ nãy tới giờ tôi đã dành chỗ cho các sự chỉ trích dân
chủ, nhất là những chỉ trích liên quan đến kinh tế. Tôi sẽ
quay lại với phần chỉ trích, lần này liên quan đến chỉ
trích về văn hóa, nhưng đây cũng là lúc để xem xét một sự
phân tích có tính chất tích cực về các chức năng của dân
chủ và tìm hiểu cặn kẽ sự tuyên xưng giá trị toàn cầu
của dân chủ.
Thế thì dân chủ thực sự là cái gì? Ta không thể đồng hóa
dân chủ với quy luật đa số. Dân chủ có những điều kiện
phức tạp, trong số đó có bầu cử và tôn trọng kết quả
bầu cử, nhưng cũng đòi hỏi phải có sự bảo vệ và tôn
trọng các quyền tự do thiên nhiên và dân sự, và bảo đảm
một sự thảo luận tự do và sự phổ biến thông tin và bình
luận trung thực mà không bị kiểm duyệt. Ngay cả những cuộc
bầu cử cũng có thể bị xem là có khuyết điểm nếu một
trong những phe tranh cử không có được cơ hội đồng đều
để trình bày lập trường của mình, hoặc cử tri không
được tự do để thu thập tin tức và nghiên cứu quan điểm
của các phe tranh cử. Dân chủ là một hệ thống đòi hỏi
nhiều điều kiện, không phải chỉ có một điều kiện được
áp dụng một cách máy móc (như quy luật đa số) và riêng rẽ.
Dưới ánh nhìn này, ta có thể liên hệ các phẩm chất của
dân chủ và sự tuyên xưng giá trị toàn cầu của nó với một
số những giá trị đặc thù phát xuất chính từ sự thực
hành dân chủ một cách đúng nghĩa. Ta có thể phân biệt ba
trường hợp khác nhau dân chủ có thể làm cho đời sống của
công dân phong phú thêm. Trước hết, tự do chính trị là một
phần của tự do của con người nói chung, và thực thi các
quyền chính trị và dân sự là một phần thiết yếu của
đời sống cá nhân trong cương vị là thành viên của xã hội.
Tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội mang lại một
giá trị nội tại cho đời sống và phúc lợi của con người.
Ngăn cấm sự tham gia này vào trong đời sống chính trị của
một cộng đồng là một sự tước đoạt nghiêm trọng.
Thứ hai, như tôi đã phản biện lập luận cho rằng dân chủ
không đi đôi với sự phát triển kinh tế, dân chủ có một
giá trị như một công cụ giúp cho sự đạo đạt các nguyện
vọng hay ủng hộ chính trị trên các diễn đàn công cộng
được dễ dàng và tốt đẹp hơn (kể các các nguyện vọng
về nhu cầu kinh tế). Thứ ba – điều này cần được nghiên
cứu sâu xa thêm – là sự thực thi dân chủ giúp cho người
công dân có cơ hội để học hỏi lẫn nhau, và giúp cho xã
hội thành lập các giá trị và xác định những ưu tiên [cần
được quan tâm]. Ngay cả ý tưởng "nhu cầu," như trong "nhu cầu
kinh tế," cũng cần được đưa ra thảo luận, trao đổi quan
điểm, và phân tích. Hiểu theo nghĩa này, dân chủ còn có một
sự quan trọng mang tính chất xây dựng cộng thêm với giá trị
nội tại trong đời sống của công dân và là vai trò công cụ
quan trọng trong những quyết định chính trị. Sự tuyên xưng
giá trị toàn cầu của dân chủ cũng cần để ý tới sự đa
dạng này.
Tiến trình hình thành những khái niệm, hay chỉ để hiểu
thấu đáo những gì được coi là "nhu cầu," trong đó có nhu
cầu kinh tế, tự nó cần có sự thực thi các quyền chính trị
và dân sự. Một sự hiểu biết đúng đắn về thế nào là nhu
cầu kinh tế – bao gồm nội dung và sức đẩy – cũng đòi
hỏi phải có trao đổi quan điểm và thảo luận. Những quyền
chính trị và quyền dân sự, đặc biệt là những quyền liên
quan đến việc bảo đảm thảo luận, tranh luận, phê phán và
cả bất đồng chính kiến một cách công khai, là trọng tâm
của một tiến trình tạo ra những sự chọn lựa có hiểu
biết và đã được cân nhắc. Những tiến trình này đóng một
vai trò quan trọng cho việc hình thành các giá trị và thứ tự
ưu tiên, và ta không thể, nói một cách tổng quát, thiên về
tiến trình nào hơn khi thảo luận việc công, mà không cần
biết xem sự thảo luận và trao đổi ý kiến công khai có
được cho phép hay không.
Thực ra, tầm ảnh hưởng và sự hữu hiệu của cuộc đối
thoại công khai vẫn thường bị coi nhẹ khi đánh giá những
vấn đề xã hội và chính trị. Thí dụ, sự thảo luận công
khai đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu
mức sinh sản cao đang xảy ra tại các nước đang phát triển.
Ta có thể tìm thấy những bằng chứng cụ thể cho thấy sự
giảm thiểu mức sinh sản tại một số tiểu bang có văn hóa
cao tại Ấn Độ là kết quả của sự thảo luận cởi mở và
công khai về các ảnh hưởng tai hại của mức sinh sản cao
đối với cộng đồng, nói chung, và đối với đời sống của
phụ nữ nói riêng.
Nếu quan điểm cho rằng một gia đình hạnh phúc là một gia
đình nho nhỏ thôi được phổ biến rộng rãi, thí dụ như
tại tiểu bang Kerala hay Tamil Nadu ở Ấn Độ, ta có thể đoan
chắc rằng đã có nhiều cuộc thảo luận và tranh luận góp
phần tạo nên quan điểm này. Kerala hiện nay có sinh suất là
1.7 (tương tự như ở Anh và Pháp, và thấp hơn sinh suất 1.9
của Tàu), và Kerala đã đạt được tỷ lệ này nhờ sự xuất
hiện của những giá trị mới chứ không cần phải có luật
hạn chế sinh sản – tiến trình đối thoại vào thảo luận
về các vấn đề chính trị và xã hội đã đóng góp một
phần lớn đến sự hình thành các giá trị mới. Tỷ lệ học
thức cao tại Kerala (cao hơn bất kỳ tỉnh nào của Trung Hoa),
nhất là trong thành phần phụ nữ, đã giúp cho những sự đối
thoại và thảo luận về chính trị và xã hội trở nên dễ
dàng hơn.
Sự nghèo đói và thiếu thốn có thể có nhiều loại khác nhau,
một số có thể được cải thiện bằng các biện pháp xã
hội dễ dàng hơn một số khác. Toàn bộ vấn nạn của con
người có thể quy vào một điều căn bản là xác định
được "nhu cầu" của con người. Thí dụ, có nhiểu điều mà
chúng ta có lý do xác đáng để xem là có giá trị và như thế
có thể xem những điều đó là những "nhu cầu" nếu đó là
những điều khả thi. Ta có thể mong muốn ngay cả có được
sự bất tử, như Maitreyee, một bộ óc có khả năng suy luận
kiệt xuất trong Áo nghĩa thư,[9] đã đặt ra cho đạo sư
Yajnvalkya trong cuộc đàm luận nổi tiếng cách đây ba ngàn năm.
Nhưng ta không xem sự bất tử là một "nhu cầu" bởi vì đó là
một việc hoàn toàn bất khả thi. Sự hình thành khái niệm về
nhu cầu có quan hệ với những ý tưởng của chúng ta về tính
chất có thể ngăn ngừa được của một sự thiếu thốn nào
đó và sự hiểu biết của ta về cách giải quyết sự thiếu
thốn này. Trong quá trình hình thành sự hiểu biết và niềm tin
vào tính cách khả thi (nhất là tính cách khả thi xã hội),
những cuộc thảo luận trên diễn đàn công đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Những quyền chính trị, bao gồm tự do
phát biểu và thảo luận, không những chỉ đóng vai trò then
chốt trong việc tạo ra những giải pháp xã hội cho các nhu
cầu kinh tế, mà còn là trọng tâm của tiến trình xây dựng
khái niệm của những nhu cầu kinh tế.
<strong>Tính chất toàn cầu của giá trị</strong>
Nếu sự phân tích ở phần trên được xem là đúng, thì sự
tuyên xưng giá trị dân chủ không dựa trên một phẩm chất
đặc thù nào mà trên nhiều đức tính khác nhau, gồm có
trước hết là sự quan trọng nội tại của sự tham gia vào
tiến trình chính trị và sự tự do của đời sống con người;
thứ hai, sự quan trọng mang tính chất công cụ của những
phần thưởng chính trị giúp cho chính quyền vận hành đúng
đắn và chịu trách nhiệm với cử tri; và thứ ba là vai trò
xây dựng của dân chủ trong việc hình thành các giá trị, và
tạo nên sự hiểu biết của ta về nhu cầu, quyền lợi, và
bổn phận. Dựa trên sự phân tích này, ta có thể trả lời
câu hỏi chính yếu của bài khảo luận này, tức là xét xem có
phải dân chủ có giá trị toàn cầu hay không.
Để phản bác sự tuyên xưng này, đôi khi người ta lý luận
rằng không phải ai cũng đồng ý về sự quan trọng mang tính
chất quyết định của dân chủ, nhất là khi so sánh dân chủ
với những điều khác mà ta khao khát hoặc có niềm tin. Quả
thật có như vậy, và như thế ta không có được sự nhất trí
ở đây. Sự thiếu nhất trí này đã được một số người
dùng làm bằng cớ để chứng minh dân chủ không phải là giá
trị toàn cầu.
Như vậy, ta phải bắt đầu với một câu hỏi mang tính phương
pháp luận: Giá trị toàn cầu là gì? Để cho một giá trị
được xem là toàn cầu, có cần giá trị đó được sự đồng
ý của mọi người không? Nếu đó thực sự là một điều
kiện cần thiết, thì phạm trù của giá trị toàn cầu trở
nên trống rỗng. Tôi không biết có một giá trị nào – ngay
cả tình mẫu tử – mà không có người chống lại. Tôi cho
rằng sự đồng thuận toàn cầu là một điều không cần
thiết để xét xem một điều gì đó có giá trị toàn cầu hay
không. Lẽ ra, sự tuyên xưng giá trị toàn cầu [của một
điều] nằm ở chỗ liệu con người, dù ở bất cứ đâu, có
lý do để xem điều đó có giá trị hay không?
Khi Mahatma Gandhi chứng minh giá trị toàn cầu của đấu tranh
bất bạo động, ông không chứng minh rằng người ta ở mọi
nơi đã hành động theo giá trị này, nhưng chỉ chứng minh
rằng người ta có đủ lý lẽ để thấy đó là điều có giá
trị. Tương tự như thế, khi Rabindranath Tagore chứng minh "sự
tự do của tâm trí" là một giá trị toàn cầu, ông không cho
rằng sự tuyên xưng này được tất cả mọi người chấp
nhận, nhưng tất cả đều có đủ lý lẽ để chấp nhận
điều đó – đó là lý do mà ông đã nỗ lực tìm hiểu, trình
bày và truyền bá.[10] Hiểu theo nghĩa này, bất kỳ một sự
tuyên xưng giá trị toàn cầu nào cũng liên quan đến một số
những phân tích phản sự thật[11] – trong trường hợp này, ta
phải giả định rằng người ta có thể thấy một giá trị
nào đó trong sự tuyên xưng [giá trị] mà trước đây họ chưa
từng để ý đến. Tất cả mọi sự tuyên xưng giá trị toàn
cầu – không phải chỉ cho dân chủ – cũng đều hàm chứa
giả thuyết này.
Tôi cho rằng nhờ vào cái giả thuyết tiềm ẩn này mà ta có
một sự chuyển biến thái độ thật là lớn lao đối với dân
chủ trong thế kỷ 20. Hãy xét một nước chưa có dân chủ và
ở những nơi mà người dân có lẽ chưa có cơ hội để thực
thi dân chủ, ta có thể giả thiết rằng người dân ở những
xứ đó sẽ tán thành và chấp nhận dân chủ một khi điều
này trở thành thực tế trong đời sống của họ. Trong thế
kỷ 19, chắc chắn giả thuyết này không được đặt ra, nhưng
cái giả thuyết mặc định mà tôi đã nhắc tới ở phần trên
đã thay đổi nhanh chóng trong thế kỷ 20.
Tưởng cũng cần ghi nhận thêm là ta nhận thấy sự thay đổi
lớn lao này qua sự quan sát lịch sử của thế kỷ 20. Khi chế
độ dân chủ lan rộng ra, những người ủng hộ dân chủ cũng
gia tăng theo chứ không giảm đi. Khởi đi từ Âu châu rồi sang
Mỹ châu, dân chủ như một hệ thống đã vươn tới nhiều bờ
bến mới và được người dân tại những nơi này chấp nhận
và sẵn lòng góp phần xây dựng. Hơn thế nữa, khi một chế
độ dân chủ đang hiện hữu bị lật đổ, người dân ồ ạt
tham gia vào những cuộc biểu tình phản đối ở khắp mọi
nơi, dù cho những cuộc biểu tình này thường bị đàn áp thô
bạo. Nhiều người đã sẵn lòng hy sinh mạng sống trong cuộc
đấu tranh khôi phục lại dân chủ.
Những người phản bác dân chủ không dựa vào lý do vì dân
chủ thiếu sự nhất trí của tất cả mọi người về giá
trị toàn cầu, mà lại dựa vào sự khác biệt giữa các vùng
trên thế giới. Cái gọi là sự khác biệt giữa các vùng
thường có liên quan đến sự nghèo đói của một số quốc
gia. Theo lập luận này, người dân nghèo chỉ quan tâm đến
miếng ăn, chứ không phải dân chủ. Lập luận thường được
nhắc đi nhắc lại này là một ngụy biện trên hai lãnh vực
khác nhau.
Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, vai trò bảo vệ của dân
chủ, đối với người nghèo có lẽ mới là điều đặc biệt
quan trọng. Điều này hiển nhiên nhất là đối với những
nạn nhân đang phải đối diện với nạn đói sắp xảy ra. Và
vai trò bảo vệ này cũng đúng luôn cho những người thất cơ
bị rớt xuống nấc thang kinh tế khi khủng hoảng tài chánh
xảy ra. Người ta khi phải đối phó với nhu cầu kinh tế cũng
cần có tiếng nói chính trị. Dân chủ không phải là một món
hàng xa xỉ đợi khi người ta có dư rồi mới dám mua sắm.
Thứ hai, có rất ít chứng cớ cho rằng người nghèo, nếu có
sự lựa chọn, sẽ từ chối dân chủ. Cho nên, cũng khá là thú
vị để nhìn lại sự kiện xảy ra hồi xa xưa vào khoảng
giữa thập niên 1970 tại Ấn Độ khi chính quyền dùng một
luận cứ tương tự để biện minh cho việc ban hành "tình
trạng khẩn cấp" (và đàn áp các quyền chính trị và dân
sự), và tổ chức một cuộc bầu cử. Cuộc bầu cử này đã
chia cử tri thành hai khối rõ rệt chỉ vì vấn đề này. Trong
cuộc bầu cử định mệnh này, hành vi đàn áp các quyền chính
trị và dân sự đã bị cử tri bác bỏ, và đại khối cử tri
Ấn – một trong số những người nghèo đói nhất trên thế
giới – đã chứng minh rằng họ cũng chống lại sự vi phạm
các quyền tự do căn bản một cách nhiệt liệt không kém
những hoạt động chống lại sự tước đoạt các quyền lợi
kinh tế.
Trong phạm vi của lập luận cho rằng người nghèo chẳng quan
tâm gì đến các quyền chính trị và dân sự, chứng cớ hiển
nhiên đã bác bỏ hoàn toàn lập luận này. Ta cũng nhận thấy
một số điểm tương tự khi quan sát cuộc đấu tranh cho những
quyền tự do dân chủ tại Nam Hàn, Thái lan, Bangladesh, Pakistan,
Miến điện, Nam dương và các nước khác tại Á châu. Tương
tự như thế, dù tự do chính trị đang bị ngăn cấm tại Phi
châu, ta cũng thấy người dân có những phong trào chống đối
những sự đàn áp này bất cứ khi nào tình thế cho phép.
<strong>Lập luận về sự khác biệt văn hóa</strong>
Cũng có một lý lẽ khác bảo vệ cho cái gọi là sự tương
phản căn bản giữa các vùng trên thế giới; lý lẽ này không
dựa trên sự khác biệt kinh tế mà trên sự khác biệt về văn
hóa. Trong số những lập luận này, nổi tiếng nhất có lẽ là
"các giá trị Á châu." Người ta vẫn thường cho rằng người
dân châu Á vẫn có truyền thống xem kỷ luật quan trọng hơn
tự do chính trị, và như vậy, người dân châu Á phải có thái
độ hoài nghi đối với dân chủ hơn các nơi khác. Tôi đã có
dịp thảo luận về đề tài này một cách khá chi tiết trong
bài thuyết trình tại Hội đồng Đạo đức và Quốc tế vụ
thuộc học viện Carnegie.[12]
Thật ra, ta rất khó tìm được bất cứ căn bản thật sự nào
cho lập luận nói trên trong kho tàng lịch sử của văn hóa Á
châu, nhất là khi chúng ta tìm hiểu những truyền thống cổ
điển của Ấn Độ, Trung Đông, Iran và các vùng khác của châu
Á. Thí dụ, ta có thể tìm thấy những lời tuyên bố mạnh mẽ
nhất và sớm nhất ủng hộ sự đa nguyên và bổn phận của
nhà nước phải bảo vệ thành phần thiểu số trong những lời
phán của hoàng đế Ashoka (Ấn Độ) được ghi khắc lại vào
thế kỷ thứ Ba trước Công nguyên.
Châu Á là một vùng đất rộng lớn chứa tới 60 phần trăm
dân số của thế giới, và công việc tổng quát hóa một tập
hợp các sắc dân đa dạng như vậy thật chẳng phải là điều
dễ dàng. Thành ra những người cổ võ cho thuyết "giá trị Á
châu" có khuynh hướng dùng khu vực Đông Á làm nền tảng cho
lý luận của họ. Luận đề chính của sự tương phản giữa
Tây phương và Á châu vẫn thường tập trung vào vùng đất ở
phía đông của Thái Lan, dù đã có người còn mạnh miệng hơn
tuyên bố rằng các vùng khác của Á châu cũng tương tự như
nhau. Lý Quang Diệu, người mà ta phải cám ơn vì đã lên tiếng
trình bày một cách đầy đủ và rõ rệt nhất về cái vấn
đề mà vẫn thường được nhắc tới một cách mơ hồ trong
vô vàn tài liệu rối như mớ bòng bong. Lý Quang Diệu đã phác
họa ra "sự khác biệt căn bản giữa khái niệm về xã hội và
chính quyền của Tây phương và Đông Á" và giải thích, "Khi
tôi [Lý Quang Diệu] nói đến Đông Á, tôi muốn nói tới Đại
Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, là những quốc gia khác với
vùng Đông Nam Á pha trộn giữa văn hóa Hán tộc và Ấn Độ,
dù văn hóa Ấn cũng chú trọng tới những giá trị tương
tự.[13]
Tuy nhiên, ngay cả vùng Đông Á cũng có nhiều khác biệt rất
lớn, với những biến thể không những giữa các nước Nhật,
Hoa, Hàn và các nước khác trong vùng, mà còn khác nhau ngay cả
trong mỗi nước. Khổng Tử là tác giả tiêu biểu vẫn thường
được trích dẫn khi giải thích các giá trị Á châu, nhưng
Khổng Tử không phải là học giả duy nhất có ảnh hưởng
tại các nước này (như tại các nước Nhật, Hoa, Hàn còn có
một truyền thống Phật giáo sâu rộng, ảnh hưởng hơn 1500
năm, và những ảnh hưởng khác nữa gồm có cả Cơ đốc
giáo). Ta thấy, không có một sự đồng nhất nào về sự tôn
sùng trật tự hơn tự do trong các nền văn hóa này.
Hơn thế nữa, Khổng Tử, chính ngài cũng không khuyến khích
người dân trung thành mù quáng với nhà nước. Khi Tử Lộ hỏi
về "đạo thờ vua," Khổng Tử đáp rằng "Làm tôi thì phải
hết lòng thành thật; như vua lầm lạc thì phải can gián,
đừng sợ mếch lòng"[14] (câu nói này các nhà kiểm duyệt của
chế độ độc tài nên suy ngẫm). Khổng Tử khuyến khích môn
đệ cẩn trọng và khéo léo trong xử thế, nhưng cũng dạy đệ
tử chống lại chế độ xấu xa (phải khéo léo, nếu cần),
như "Bang hữu đạo, nguy ngôn, nguy hành; bang vô đạo, nguy hành,
ngôn tốn"[15] (lúc nước yên ổn, sống thanh cao và bày tỏ
hết ý để giúp nước; lúc nước điên đảo, vẫn sống thanh
cao, nhưng dè dặt trong lời nói).
Thực ra, Khổng Tử đã chỉ rõ rằng hai trụ cột trong tòa nhà
giá trị Á châu: trung với nhà và tuân theo phép nước, có thể
xung đột trầm trọng với nhau. Những người cổ võ cho sức
mạnh của giá trị Á châu quan niệm vai trò của nhà nước như
một sự nối dài của gia đình, nhưng Khổng Tử ghi nhận rằng
hai điều này có chỗ xung khắc với nhau. Diệp Công nói với
Khổng Tử rằng: "Ở xóm tôi có những người ngay thẳng rất
mực, như cha ăn trộm dê thì con đứng ra làm chứng khai thật."
Khổng Tử đáp: "Ở xóm ta, người ngay thẳng cư xử có khác.
Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha; tình ngay thẳng vẫn ngụ
trong đó vậy."[16]
Sự giải thích một chiều về giá trị Á châu là những điều
chống đối với dân chủ và các quyền chính trị không tồn
tại được dưới sự phân tích nghiêm túc. Tôi không nên quá
khắt khe trước sự thiếu sót trầm trọng các nghiên cứu khoa
học để bảo vệ luận cứ này, vì những người tuyên xưng
giá trị Á châu không phải là học giả mà là những chính
trị gia, thường phát biểu hoặc chính thức hoặc không chính
thức cho các chế độ độc tài. Thật ra, đây cũng là điều
thú vị khi những người nghiên cứu học thuật như chúng tôi
thường bị mang tiếng là thiếu thực tế về các vấn đề
chính trị, còn những chính trị gia thực tế thì lại thiếu
thực tế về các vấn đề nghiên cứu.
Dĩ nhiên, muốn tìm những tác phẩm do những học giả chuyên
chế trong truyền thống Á châu thì cũng chẳng khó khăn gì.
Nhưng muốn tìm những tài liệu như vậy trong các tác phẩm Tây
phương cũng dễ dàng thôi: Ta chỉ cần suy ngẫm những bài
viết của Plato hoặc Aquinas là cũng đủ thấy sự tôn sùng kỷ
luật không phải chỉ là đặc tính Á châu. Bỏ qua sự hợp lý
của dân chủ như một giá trị toàn cầu chỉ vì một vài bài
viết cổ võ kỷ luật và trật tự, thì cũng chẳng khác nào
bỏ qua luôn dân chủ như một mô hình chính quyền tự nhiên
tại Âu Mỹ ngày nay chỉ vì bài viết của Plato hay Aquinas (đó
là chưa kể đến những tài liệu thời Trung cổ kết án những
người ngoại đạo).
Dựa trên kinh nghiệm của những cuộc chiến chính trị cận
đại, nhất là ở Trung Đông, Hồi giáo vẫn thường được xem
là một tôn giáo tự bản chất thù địch và không dung thứ cho
tự do cá nhân. Nhưng sự hiện hữu của những chi phái khác
nhau trong cùng một truyền thống cũng xảy ra trong đạo Hồi
như trong các tôn giáo khác. Tại Ấn Độ, Akbar và đa số các
hoàng đế Moghul khác (ngoại trừ vua Aurangzeb) là những thí dụ
điển hình cho sự khoan dung giữa lý thuyết và thực hành về
chính trị cũng như tôn giáo. Những vị hoàng đế Thổ nhĩ kỳ
vẫn thường khoan dung hơn các vị vua cùng thời ở Âu châu. Có
rất nhiều thí dụ trong số những vua chúa tại Cairo hay Baghdad.
Thực ra trong thế kỷ 12, đại học giả Maimonides, gốc Do Thái,
đã phải bỏ trốn khỏi Âu châu nơi ông sinh ra, để tránh sự
không dung thứ và bách hại người Do Thái, và sang tá túc trong
sự khoan dung tại Cairo dưới sự bảo trợ của vua Saladin.
Sự đa dạng là một nét đặc biệt của mọi nền văn hóa
trên thế giới. Văn minh Tây phương cũng không phải là trường
hợp ngoại lệ. Việc thực hành dân chủ rộng rãi tại Tây
phương trong thời hiện đại, một phần lớn là kết quả của
một sự đồng thuận đã được phát sinh ra từ thời Khai Sáng
và Cách mạng Kỹ nghệ, và nhất là trong thế kỷ vừa qua.
Nếu ta chỉ xem sự gắn bó của Tây phương với dân chủ trong
hơn một thiên niên kỷ, rồi so sánh với những truyền thống
không thuộc Tây phương (xem những truyền thống đó như một
khối thuần nhất), thì đó là một sai lầm lớn lao. Khuynh
hướng dẫn đến sự cực kỳ đơn giản hóa này ta có thể
thấy không những trong những lời tuyên bố của viên chức
chính quyền tại Á châu, mà còn trong những lý thuyết của
chính một số học giả nổi tiếng Tây phương.
Ta có thể dùng một thí dụ trong nhiều tác phẩm của một
học giả nổi tiếng mà công trình nghiên cứu đã có rất
nhiều ảnh hưởng, đó là luận đề của giáo sư Samuel
Huntington về sự va chạm giữa các nền văn minh, nhưng sự khác
biệt trong mỗi nền văn hóa không được ghi nhận đầy đủ.
Sự nghiên cứu của Huntington đưa đến một kết luận rõ ràng
là "ý thức về chủ nghiã cá nhân và truyền thống tôn trọng
tự do và quyền cá nhân" trong nền văn hóa Tây phương là "một
nét độc đáo trong số các xã hội văn minh."[17] Hungtington cũng
lập luận rằng "những đặc tính trọng yếu của Tây phương,
những đặc tính mà đã tạo nên sự khác biệt với các nền
văn minh khác, đã hiện hữu trước khi Tây phương được hiện
đại hóa." Theo ông, "Tây phương là Tây phương trong một thời
gian rất dài trước khi trở thành hiện đại."[18] Tuy nhiên,
đó là một luận đề mà, như tôi đã lý luận, không đứng
vững trước sự mổ xẻ, phân tích các dữ kiện lịch sử.
Đối với mọi nỗ lực của một người phát ngôn cho các
chính quyền Á châu nhằm chứng tỏ sự tương phản giữa "cái
gọi là" giá trị Á châu với cái gọi là giá trị Tây phương,
thì cũng giống như nỗ lực của những nhà trí thức Tây
phương nhằm chứng minh sự tương phản do phía bên kia đưa ra.
Nhưng dù cho mỗi sức kéo của Á châu bị trung hòa bởi sức
đẩy từ Tây phương, thì cả hai cũng chẳng làm xuy xuyển
được giá trị toàn cầu của dân chủ.
<strong>Trọng tâm của vấn đề</strong>
Tôi đã cố trình bày một số các vấn đề liên quan đến giá
trị toàn cầu của dân chủ. Giá trị của dân chủ gồm có
cả sự quan trọng nội tại trong đời sống của loài người,
vai trò công cụ trong việc tạo ra những phần thưởng và
trừng phạt chính trị, và chức năng xây dựng trong việc hình
thành những giá trị (và trong sự hiểu biết về sức đẩy và
sự khả thi của những tuyên xưng về nhu cầu, quyền lợi, và
bổn phận). Những giá trị này không hề mang tính chất địa
phương. Tương tự như sự cổ võ cho kỷ luật và trật tự.
Sự khác biệt giữa những giá trị, có lẽ là nét chung của
hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả các nền văn hóa
chính của con người. Lý luận văn hóa không hạn chế hay loại
trừ những sự lựa chọn của chúng ta ngày nay.
Những sự lựa chọn này phải được thực hiện tại đây và
ngay bây giờ, cùng lúc phải ghi nhận chức năng của dân chủ
mà các nền dân chủ trên thế giới hiện nay đang áp dụng.
Tôi đã chứng minh rằng giá trị toàn cầu của dân chủ là
một giá trị vững chắc và không mang tính chất địa phương.
Sức mạnh của sự tuyên xưng giá trị toàn cầu của dân chủ
nằm ở chỗ đó. Đó mới chính là trọng tâm của vấn đề.
Giá trị toàn cầu của dân chủ không thể bị phủ nhận bởi
những cấm kỵ tưởng tượng của văn hóa Á châu hay tính
chất tiên thiên thuận lợi của Tây phương.
© Học Viện Công Dân 2009
Nguồn: http://www.gozaar.org/template1.php?id=1120&language=english
[1] Trong tiểu thuyết Điểm Đối Điểm của Aldous Huxley's, một
người chồng nói dối vợ là anh ta phải đi London để nghiên
cứu về nền dân chủ của cổ Ấn Độ trong thư viện của
Viện Bảo tàng Quốc gia, để đi thăm nhân tình.
[2] Ruth Dreyfus là nữ tổng thống đầu tiên của Thụy sĩ vào
năm 1999. Phụ nữ Thụy sĩ được quyền bầu cử lần đầu
tiên năm 1971, và quyền ứng cử/bầu cử tại các cấp chính
quyền từ địa phương tới liên bang từ năm 1990 (ghi chú của
người dịch).
[3] Ấn Độ có 22 ngôn ngữ chính được hiến pháp công nhận,
và hàng ngàn các ngôn ngữ khác nhau (Indian Language:
http://www.indianlanguages.com/main/index.php). Có 4 nhóm tôn giáo chính
tại Ấn Độ: Ấn giáo (Hindu), Hồi giáo (Islam), Thiên Chúa
giáo, và đạo Sik; ngoài ra còn Phật giáo, đạo Jain cùng những
giáo phái khác do nhiều đạo sư sáng lập (ghi chú của người
dịch).
[4] Adam Przeworski et al., Sustainable Democracy (Cambridge: Cambridge
University Press, 1995); Robert J. Barro, Getting It Right: Markets and
Choices in a Free Society (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1996).
[5] Tôi đã khảo sát các bằng chứng thực nghiệm và quan hệ
nhân quả giữa hai yếu tố này một cách chi tiết trong cuốn
sách Development as Freedom, sắp được nhà xuất bản Knopf phát
hành năm 1999.
[6] Xem thêm bài viết của tôi trong tiểu luận "Phát triển:
Nhưng theo hướng nào?" Tạp Chí Kinh Tế, bộ 93 (12,1983); sách
Tài nguyên, Giá trị, và Phát triển (Harvard University Press, 1984);
và tiểu luận "Lý tính và Sự Lựa chọn Xã hội," diễn văn
của tôi, lúc đó là chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Hoa kỳ,
được in trong tạp chí American Economic Review tháng Ba, 1995. Xem
thêm các cuốn sách do Jean Dr'eze và Amartya Sen viết, nhan Nạn
Đói và Các Hoạt động Công (nhà xuất bản Clarendon Press,
1987); do Frances D'Souza, chủ biên, nhan Nạn Đói trong Thầm lặng:
Báo cáo về Nạn đói và chế độ kiểm duyệt (Điều 19 của
Trung tâm Quốc tế về Kiểm duyệt, 1990); sách do Human Rights
Watch xuất bản, nhan Những Nhân quyền bất khả phân: Quan hệ
giữa Quyền Chính trị và Dân sự với Sự Nghèo đói, Sinh kế,
và Sinh tồn (1992); và Báo cáo về Thiên tai trên Thế giới của
hội Hồng thập tự Quốc tế và hội Lưỡi liềm Đỏ, 1994.
[7] Dr'eze và Sen, Nạn Đói và Các Hoạt động Công.
[8] Phần thưởng chính trị: cử tri dành cho những viên chức
chính quyền hoạt động hữu hiệu trong thời gian tại chức;
ngược lại, viên chức chính quyền sẽ bị cử trị bầu cho
ứng viên khác (ghi chú của người dịch).
[9] Áo nghĩa thư là một trong những tác phẩm triết học cổ
điển của Ấn Độ và cũng là kinh điển của giáo phái Vệ
đà của Ấn giáo (ghi chú của người dịch).
[10] Xem thêm cuốn sách "Tagore và nước Ấn Độ" của tôi do
nhà xuất bản New York Review of Books phát hành năm 1997.
[11] Phân tích phản sự thật (counterfactual analysis) là một
phương pháp lý luận dựa trên mô hình sau đây: "Nếu A và B là
2 sự kiện thực khác nhau, thì sự hiện hữu của B có quan hệ
nhân quả với A, nếu và chỉ nếu, nếu A không xảy ra, thì B
sẽ không xảy ra." (xem thêm David Lewis' Theory tại:
http://plato.stanford.edu/entries/causation-counterfactual/. Ghi chú của
người dịch)
[12] Amartya Sen, "Nhân quyền và các Giá trị Á châu," do Carnegie
Council on Ethics and International Affairs ấn hành năm 1997), bản rút
ngắn được in lại trong tờ The New Republic, ngày 14-21/07/1997.
[13] Fareed Zakaria, "Văn hóa là Số mệnh: Cuộc trò chuyện với
Lý Quang Diệu," Tạp chí Foreign Affairs số 73 (March-April 1994):
113.
[14] Luận ngữ, 14:23
[15] Luận ngữ, 14: 4 (bản dịch Đoàn Trung Còn, Nhà XB Thuận
Hóa, 2000)
[16] Luận ngữ, 13:18 (sách đã dẫn)
[17] Samuel P. Huntington, Sự Va chạm giữa các nền văn minh và
Công cuộc Tái lập Trật tự Thế giới, New York: Simon and
Schuster, 1996, trang 71.
[18] Sách đã dẫn, trang 69.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7814), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét